Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 1

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 1: Những bức thư - nước chanh ép và những nỗi thất vọng lớn

Vào một buổi sáng trong trẻo tháng Chín, khi hầu hết bọn trẻ cùng trang lứa ở trường nghiền ngẫm môn phân số và các dấu phẩy thập phân thì cậu bé Reynie Muldoon lại đang đi bộ dọc theo một con đường lớn đầy bụi bặm. Cậu là một đứa bé trai ưa nhìn - với đôi mắt và mái tóc màu nâu trung bình, chiều cao trung bình, khoảng cách giữa mũi và hai tai cũng chỉ ở mức trung bình. Và cậu bé hoàn toàn đơn độc. Ngoài một con chim ưng đang tung cánh vút lên phía trên con đường quốc lộ và vài chú chim chiền chiện đang cố giấu mình bay là là trên những cánh đồng bên kia đường, Reynie là sinh vật sống duy nhất có mặt ở đây.
Thoạt nhìn, Reynie trông có vẻ giống một đứa trẻ xa nhà đi lạc, nhưng chuyện đó chỉ đúng một nửa thôi. Ít nhất Reynie cũng thấy thật thú vị khi nghĩ vậy, vì hoàn cảnh hiện tại của cậu có thể miêu tả hoàn toàn bằng những từ “một nửa”: cậu đã đi xe nửa ngày đường từ ngoại ô Thành phố Đá đến đây; cách thị trấn gần nhất nửa dặm đường; và theo như người đàn ông chỉ đường thì hiện giờ cậu chỉ còn cách đích đến của mình một nửa dặm đường nữa thôi. Tuy nhiên điều quan trọng nhất là đã nửa năm rồi cậu chưa được gặp ba đứa bạn thân nhất của mình.
Reynie nheo mắt vì ánh mặt trời. Cuối con đường làng bẩn thỉu cách đó không xa, leo lên một ngọn đồi dốc đứng, như người đàn ông trong thị trấn đã nói, đó là đích đến của cậu. Trên ngọn đồi xa xa ấy cậu thấy một trang trại. Và ở đó cậu sẽ tìm thấy Kate Wetherall.
Reynie cố rảo bước nhanh hơn, đôi giày khua bụi tung mù mịt. Ôi, chỉ ít phút nữa thôi cậu sẽ được gặp Kate! Và Sticky Washington - Sticky cũng sẽ ở đây tối nay! Rồi ngày mai cả bọn sẽ lái xe về Thành phố Đá để gặp... xem nào, để gặp Constance Contraire, nhưng thế cũng chẳng sao. Ngay cả ý nghĩ Constance làm cậu bẽ mặt với những câu thơ vần điệu nhịp nhàng cũng khiến Reynie sung sướng. Constance có thể là một thiên tài thô-lỗ-trơ-tráo, nhưng cô bé là một trong số rất ít người trên thế giới này mà Reynie có thể coi là bạn bè thật sự. Constance, Kate và Sticky giống như là gia đình của cậu vậy. Cậu mới chỉ gặp bọn họ một năm trước thôi, nhưng có hề gì - tình bạn của nhóm đã nảy nở trong những hoàn cảnh vô cùng khác thường.
Nghĩ vậy Reynie bắt đầu chạy nhanh hơn.
Vài phút sau cậu đã đứng trên đỉnh đồi, hai tay chống đầu gối, thở hổn hển như chú cún con. Cậu tự cười nhạo mình. Rốt cuộc cậu đâu phải là Kate, người có thể chạy một mạch từ thị trấn đến đây mà không đổ một giọt mồ hôi nào. (Có khi cô bé còn có thể chạy trong tư thế trồng cây chuối nữa ấy chứ). Năng khiếu trời cho của Reynie chả liên quan gì đến thể chất - trong lĩnh vực này cậu cũng chỉ ở mức trung bình thôi. Cậu đưa tay quệt trán, vừa thở hổn hển vừa đưa mắt bao quát cả trang trại rộng thênh thang trước mặt.
Vậy đây là nhà của Kate: một ngôi nhà bình thường với kho thóc nhỏ, cả hai đều được quét sơn mới tinh, một cái xe tải cũ đỗ trong sân; một cái chuồng gà màu trắng bé tẹo; một bãi quây đầy cừu và dê, phía xa xa là những đồng cỏ trải dài nối tiếp nhau. Phía bên kia con đường nhỏ là một vườn cây ăn quả, một vài cây lấp ló những trái táo đỏ mập mạp, còn những trái khác thì chưa lớn lắm và rất khó nhìn thấy. Ở trang trại có rất nhiều việc phải làm, Kate đã nói vậy trong một lá thư. Và gần như đó là tất cả những gì cô ấy nói. Những lá thư của cô bé chẳng bao giờ dài dòng, nhưng luôn luôn vui vẻ. Thực ra là có hơi vui vẻ quá mức - đôi khi chúng làm Reynie cảm thấy như mình là người duy nhất thấy nhớ bạn bè.
Ngay lúc Reynie bắt đầu đi xuống đồi, một hồi chuông vang lên từ những trang trại phía dưới. Cậu đảo mắt khắp nơi hy vọng nhìn thấy Kate, nhưng chỉ thấy lũ dê cừu đang ùa khỏi bãi đất quây ra đồng cỏ. Reynie đờ người ra vì kinh ngạc. Cậu thề là đã nhìn thấy con dê cuối cùng ra khỏi bãi quây tự quay lại húc đầu đóng cánh cổng ra vào.
Reynie cau mày thắc mắc. Con dê có ý thức tự giác đó không phải là điều khác thường đầu tiên cậu trông thấy vào sáng nay. Nó khiến cậu nhớ đến điều gì đó khác nữa - một điều thật lạ lùng mà vì quá hào hứng nên cậu đã không để tâm mãi cho tới tận lúc này. Reynie đưa tay lên che mắt cho khỏi chói và quan sát bầu trời. Kia rồi, con chim ưng lúc nãy đang lượn tròn phía trên cao. Cậu có thể nhận ra nó, chỏm lông màu đen trên đỉnh đầu ăn khớp với hai bên lông mai dài đen bóng. Reynie không định tìm hiểu nhiều về chim chóc (dù thực tế cậu còn biết nhiều hơn khối người), nhưng cậu chắc chắn đây là một con thuộc giống chim cắt - mà trong vùng này, vào thời điểm này trong năm, chả mấy khi người ta nhìn thấy nó.
Reynie nhoẻn miệng cười rồi hối hả lao xuống đồi vào sân trang trại. Có điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra và cậu không thể đợi để khám phá xem đó là gì.
Cái kho nằm gần hơn so với ngôi nhà nên Reynie đi tới và thò đầu vào qua hai cánh cửa mở để xem có Kate ở đó không. Đôi mắt đã quen với mặt trời chói chang nên phải mất một lúc cậu mới thích nghi được với bóng tối bên trong, nhưng khi đã quen rồi mắt cậu lập tức thấy một hình ảnh đáng vui mừng hơn cả.
Đuôi tóc vàng óng quen thuộc, đôi vai rộng và cái giỏ đồ đỏ như xe cứu hỏa kia. Không nghi ngờ gì nữa, cậu đã tìm thấy Kate. Cô bé đứng quay lưng về phía cậu, tay chống nạnh, nhìn chằm chằm lên bức tường phía xa. Reynie định hù cô bạn, nhưng nhanh chóng nghĩ lại. Có lẽ hù dọa Kate là một ý tưởng rất tệ. Cậu vốn ghét quấy rầy cô bạn mà. Kate vẫn chăm chú nhìn thẳng về phía trước, dường như đang mải mê tập trung vào đó. Reynie chẳng thấy có gì trên bức tường nhà kho cả, cậu ngờ rằng cô bạn đang tập trung vào một thứ gì đó trong tâm tưởng thì đúng hơn. Có lẽ cô bé đang mải nghiền ngẫm về một loại dụng cụ mới hữu ích nào đó có thể mang trong cái giỏ của mình.
Bất chợt Kate gập người lại và bắt đầu ho. Cô bé thở khò khè rồi phát ra những tiếng nôn ọe thật kinh khủng. Chẳng lẽ Kate đang bị nghẹn? Reynie vừa định lao tới giúp bạn thì Kate kêu ré lên tuyệt vọng và dậm chân thình thịch. “Không phải nữa chứ!” Cô bé rên rỉ đứng thẳng người lên, rồi quay lại và trông thấy Reynie đang đứng ngó trân trân từ lối vào kho thóc.
“Mình không biết có chuyện gì,” Reynie nói, “nhưng mình có cảm giác mọi thứ ở đây đều rất lạ.”
“Reynie!”
Kate nhảy bổ vào cậu bạn, đôi mắt xanh biếc sáng rực lên vui sướng. Reynie dang rộng hai cánh tay và lập tức cảm thấy hối hận. Kate vì quá mừng rỡ nên lao thẳng tới giống một cú phá bóng hơn là một cái ôm, và thế là cả hai đứa ngã bổ chửng xuống đất. Reynie cảm thấy như oxi bật hết ra khỏi lồng ngực.
“Cậu đã đến rồi à?” Kate nhỏm dậy trên hai đầu gối, hồ hởi nói liến thoắng. “Cô Perumal và mẹ cô ấy đâu rồi? Sao mãi giờ cậu mới đến hả? Đáng lẽ cậu phải ở đây từ hôm qua rồi chứ? Tớ đã phải đọc đi đọc lại lá thư đến hai lần để biết chắc đấy!”
Reynie đang choáng váng vì đột ngột bị hạ nốc ao nhưng vẫn gắng gượng nhoẻn miệng cười - chắc lúc này trông cậu giống một con cá mắc câu lắm đây - nhưng cậu chỉ mấp máy được môi thôi chứ chẳng thốt ra nổi tiếng nào.
“Sao thế, Reynie, cậu bị mất tiếng rồi à?” Kate vừa nói vừa cười như nắc nẻ. Cô bé kéo Reynie đứng dậy và bắt đầu phủi bụi cho cậu bằng những cú đập vào người rõ đau. “Tớ biết, tớ cũng háo hức lắm. Và không chỉ vui về điều ngạc nhiên lớn của ông Benedict đâu, tớ mừng rơn vì được gặp lại bọn con trai các cậu! Cậu không biết tối qua không thấy cậu đến tớ thất vọng thế nào đâu.”
Lấy lại được hơi, Reynie bước ra tránh những cái vỗ đập của Kate rồi nói, “Cậu không phải người duy nhất cảm thấy thế đâu. Xe của bọn tớ bị hỏng, chúng tớ phải đẩy xe vào thị trấn và qua đêm trong quán trọ đấy.”
“Quán trọ trong thị trấn á?” Kate gào lên. “Thế mà nhà tớ không biết! Nhà tớ có thể đến đón cậu bằng xe tải.”
“Xin lỗi, tớ định gọi điện, nhưng vì cậu không có điện thoại nên...”
Kate rên rỉ. “Ôi, Milligan và những nguyên tắc của ông! Tớ yêu bố lắm nhưng trong một số chuyện ông cứ khăng khăng...”
“Dù sao thì,” Reynie vừa cười vừa nói, “tớ không thể ở yên chờ cái xe sửa xong nên đã xin phép Amma đi trước.” Amma là cách Reynie gọi cô Perumal, mẹ nuôi của cậu. “Sau đó tớ hỏi đường người thợ sửa xe và giờ tớ đang ở đây rồi. Amma và Pati sẽ đi thẳng tới đây ngay khi cái xe chạy được.”
Kate tóm lấy cánh tay Reynie, gương mặt nhăn lại vì lo lắng (lạ thật, Kate vốn đâu phải là kiểu người hay lo âu nhỉ). “Xe có đủ chỗ cho cả ba người bọn tớ đi cùng không? Ý tớ là đi cùng với cô Perumal, mẹ cô ấy và cả đống hành lý nữa? Bố mẹ của Sticky cũng sẽ đến, nhưng cậu biết đấy, xe của họ nhỏ xíu. Không thể hình dung nổi việc một đứa trong bọn mình lại bị tách ra sáu tiếng đồng hồ trên hai cái xe khác nhau - nhất là khi chúng mình đã xa nhau cả sáu tháng trời rồi!”
“Chúng tớ thuê hẳn một chiếc xe bán tải nên còn vô khối chỗ để ngồi. Giờ nghe này,” Reynie nói, giơ tay lên chặn Kate lại khi cô bé bắt đầu định nói nữa, “trước khi chúng ta lạc đề quá xa, bây giờ cậu sẽ nói cho tớ biết cậu đang làm gì chứ? Lần cuối cùng tớ nghe thấy một tiếng kêu như thế là khi con mèo ở Trại tế bần nôn ra một cuộn len.”
“Ồ, cái đó à?” Kate nhún vai. “Tớ đang tập luyện để có thể nôn ọe ra mọi thứ, nhưng khó hơn là tớ nghĩ.” Thấy vẻ mặt kinh hoàng của Reynie, cô bé vội giải thích. “Đó là một nghệ thuật để tẩu thoát xưa cũ ấy mà. Houdini và tất cả mấy gã đó đều có thể làm thế cả. Chúng nó nuốt một cái chìa khóa hay thứ gì đó, sau đấy dùng các múi cơ trong cuống họng để đẩy nó ra. Cậu có thể luyện tập với một sợi dây buộc vào thứ cậu sắp nuốt vào, như vậy cậu có thể kéo nó trở ra. Tớ lúc đầu cũng làm như thế, nhưng sau tớ nghĩ mình có thể xoay sở mà không cần dây. Nhưng tớ chả may mắn tẹo nào.”
“Vậy là tớ đã đúng,” Reynie nói. “Trò này thật buồn cười. Nhưng nó không nguy hiểm đấy chứ?”
Kate bặm môi nghĩ ngợi. Rõ ràng cô bé chưa bao giờ cân nhắc đến chuyện này. Kate không phải là kiểu người để tâm lo lắng đến mấy chuyện nguy với chả hiểm. “Tớ nghĩ đây không phải là trò an toàn nhất trên đời đâu,” Kate thừa nhận, rồi ánh mắt trở nên nghiêm nghị, cô bé nói, “cậu đừng nên thử nhé.”
Reynie cười ngặt nghẽo (vì chẳng điều gì có thể xui khiến cậu thử cái trò kỳ cục như thế), rồi đáp lại bằng một cái nhìn nghiêm túc không kém, cậu nói. “Được rồi, Kate, tớ hứa không bao giờ nuốt - à mà cậu nuốt cái quái gì thế hả?”
Kate đảo mắt phẩy tay. “Tớ không muốn nói.”
“Này này, giờ có chuyện gì xảy ra đâu chứ?” Reynie phản đối, trông càng kinh hãi. “Ý tớ là dù sao cậu đã không thể...?”
“Tớ không muốn nói về nó,” Kate kiên quyết.
Dù sao chăng nữa họ cũng có đủ thứ hằm bà lằng khác để nói rồi.
Kate không chỉ muốn đưa Reynie đi xem một vòng trang trại, cô bé còn quyết liệt muốn khai thác xem cậu nghĩ sao về kế hoạch của ngài Benedict dành cho cả bọn. Tròn một năm đã qua kể từ hồi ngài Benedict tuyển chọn bốn đứa cho một nhiệm vụ khấn cấp - nhiệm vụ mà chỉ những đứa trẻ xuất sắc nhất mới có thể đảm đương được - bây giờ chính là dịp kỷ niệm một năm lần đầu tiên cả bọn gặp nhau, ông đã sắp xếp một cuộc sum họp tổ chức ở nhà ông tại Thành phố Đá. Trong một lá thư ông giải thích, “Đến đây các cháu sẽ có một ngạc nhiên mà ta hy vọng tất cả các cháu sẽ hài lòng - sự ngạc nhiên này tuy không thể hiện hết được lòng biết ơn và tình cảm yêu mến vô bờ bến mãi mãi của ta dành cho các cháu, nhưng cũng cho thấy được sự coi trọng ... “ Và ông ấy cứ tiếp tục nói liền tù tì như thế một lúc, nói rõ tỉ mỉ về việc ông đánh giá cao những phẩm chất độc nhất vô nhị của bọn trẻ như thế nào và ông háo hức được gặp lại tất cả. Kate vui sướng chỉ đọc lướt qua lá thư rồi cất đi. Reynie thì đọc đi đọc lại bức thư vài lần đến mức học thuộc lòng nó luôn.
“Cậu ghi nhớ tất cả à?” Kate vừa nói vừa dẫn Reynie leo lên một cái thang để chỉ cho cậu vựa chứa cỏ khô. “Cậu bắt đầu có vẻ giống Sticky rồi đấy nhé.”
“Sticky thì chỉ cần đọc nó mỗi một lần thôi,” Reynie đáp, đó hoàn toàn là sự thật, nhưng Reynie chủ yếu nhắc đến Sticky hòng đánh lạc hướng sự chú ý. Thực ra cậu ghi nhớ từng lá thư nhận được suốt sáu tháng qua - không chỉ là thư từ ngài Benedict, mà còn cả những mẩu tin nhắn vui vẻ Kate gửi, những báo cáo có phần hơi tẻ ngắt nhưng lúc nào cũng chi tiết của Sticky, và thậm chí cả bài thơ loằng tà là ngoằng Constance viết về bất cứ thứ gì từ nụ hoa chúm chím, đến con thỏ cáu bẩn, hay mẩu giấy vụn nào đó đánh trúng cảm hứng sáng tạo của cô nàng trên đường đi kiếm một con tem. Reynie cảm thấy hơi tủi thân khi cậu cứ luôn bấu víu vào từng từ từng chữ trong những lá thư của bọn bạn, trong khi chẳng ai trong số tụi nó đả động đến việc nhớ nhung cậu.
“Nói đến Sticky,” Kate bắt đầu khi kéo Reynie đi qua cánh cửa lật vào vựa cỏ, “gần đây cậu có nghe ngóng được gì nhiều từ cậu ấy không? Sticky nói hai đứa các cậu viết thư cho nhau thường xuyên hơn là mình và cậu ấy. Lại còn nói rằng cậu thực sự chịu khó trả lời các câu hỏi của cậu ấy, không giống như mấy đứa bạn khác. Tớ không nghĩ là cậu ấy hiểu hoàn cảnh của tớ. À mà đây là vựa cỏ đấy nhá.”
Reynie nhìn quanh. Cái vựa cỏ giống như mọi vựa cỏ khác mà cậu từng thấy - mặc dù thực ra cậu chỉ mới nhìn thấy chúng trên tranh ảnh và tivi - nhưng Kate có vẻ hết sức tự hào về nó, vậy nên cậu gật lấy gật để vẻ tán thưởng trước khi nói.
“À, chuyện là,” Kate vừa nói vừa mở toang cánh cửa dẫn ra bên ngoài, nó trông ra bãi đất quây cho bầy gia súc, “tớ bận bịu khủng khiếp, vừa phải đi học lại vừa phải cố gắng thu vén trang trại và điều hành nó. Cậu biết đấy, bố Milligan thường xuyên vắng nhà làm nhiệm vụ, nên tớ phải phụ giúp mọi việc.”
Reynie biết chuyện này. Milligan là cha Kate, đồng thời cũng là một đặc vụ mật. Tất cả những chuyện đó không ai biết mãi cho tới gần đây, ngay cả Kate cũng không được biết. Khi Milligan bị bắt trong khi thực thi một nhiệm vụ thì cô bé mới chỉ chập chững biết đi, ông bị mất trí nhớ và không quay trở về được. Vì mẹ mất và cha thì bỏ đi (như mọi người đã tin như vậy), nên Kate bị gửi vào trại trẻ mồ côi, rồi cuối cùng lưu lạc đến một gánh xiếc. Về phần Milligan, ông đã trốn thoát khỏi những kẻ bắt giữ mình và đến làm việc cho ông Benedict. Mãi cho tới khi ông Benedict tập hợp họ lại với nhau, chính xác là vào tháng này một năm trước, thì Kate và Milligan mới khám phá ra sự thật.
“Trang trại tan hoang suốt bao nhiêu năm trời,” Kate nói. “Thế đã đủ khiến tớ bận tối tăm mặt mũi rồi. Tất nhiên, tớ không ngại việc đâu. Việc tớ thấy khó nhất là ngồi yên một chỗ đủ lâu để viết một lá thư mùi mẫn. Đáng lẽ Sticky nên biết điều đó chứ, phải không?”
“Đáng lẽ cậu ấy nên thế,” Reynie công nhận. Cậu bước đến cửa, Kate đang lấy thứ gì đó từ chỗ cái giỏ (Reynie để ý thấy bây giờ nó đã lật ngửa lên) và đưa nó lên môi. Đó là một loại còi. Cô bé lại với vào cái giỏ lần nữa.
“Nhưng vấn đề thật sự với chuyện viết thư,” Kate tiếp tục nói qua đôi môi đang ngậm chặt cái còi trong khi xỏ tay vào một chiếc găng tay da dày dặn, “là chính phủ kiểm soát tất cả thư của tớ. Con gái của một đặc vụ hàng đầu, cậu biết rồi đấy. Họ phải chắc chắn là tớ không tiết lộ bất cứ bí mật nào. Mọi chuyện liên quan đến nhiệm vụ của chúng mình bị bưng bít kín mít đã đủ tệ rồi - vì lẽ ra bọn mình có quyền nổi tiếng sau tất cả những gì đã làm - nhưng tớ thậm chí còn không thể gửi những lá thư riêng tư cho bạn bè thân? Thật là quá đáng!”
Như để bộc lộ hết nỗi bức xúc, Kate phồng má thổi hết sức vào cái còi, làm nó phát ra một tiếng rít inh ỏi.
“Đấy có phải là cái tớ nghĩ không nhỉ?” Reynie hỏi.
“Có thể,” Kate đáp, “vì cậu thường xuyên đúng về mọi thứ mà. Cậu không nghĩ là thật thiếu công bằng khi Sticky cứ đổ lỗi cho tớ là viết thư ít quá à?”
Reynie quyết định nói thẳng nói thật. “Tớ phải thú nhận là tớ cũng cảm thấy thế đấy, mà không chỉ là thư của cậu thôi đâu, cả của mọi người nữa. Chẳng có ai thực sự đả động đến chuyện… chuyện… ừm, tớ bắt đầu nghĩ rằng mình là người duy nhất, cậu biết rồi đấy, người…”
Kate nhìn cậu bạn bằng ánh mắt nghi ngờ. “Reynard Muldoon! Trong tất cả mọi người, tớ không bao giờ nghĩ lại là cậu đấy…” Cô bé lắc đầu. “Không phải mọi người đều có khả năng trời ban trong việc bày tỏ ý nghĩ của mình, Reynie ạ. Cậu không biết tớ nhớ tất cả các cậu nhiều đến mức nào đâu. Tớ thậm chí còn nhớ Constance đến phát khóc cơ đấy!”
Reynie cười toe toét. Đúng như cậu hy vọng. Mới ở đây có năm phút mà cậu đã cảm thấy khỏe hơn cả trăm lần rồi.
“A, cô nàng đây rồi!” Kate reo lên rồi đưa một cánh tay lên cao. Giây lát sau không khí trước mặt họ vỡ òa ra thành một cơn náo động những móng vuốt và cánh chim. Reynie giật lùi ra sau. Con chim ưng đã sà xuống đậu trên cái găng tay da dày cộp dài quá cổ tay của Kate. Bây giờ nó đang nghiêng ngó cái đầu hết bên này tới bên kia, săm soi hai đứa. “Reynie, gặp Madge đi.”
“Madge á?”
“Viết tắt của Bệ Hạ. Thực ra tên đầy đủ của cô nàng là Nữ Hoàng Bệ Hạ. Vì nó là nữ hoàng của các loài chim mà.”
“Mình thấy rồi,” Reynie đáp. “Đẹp thật. Nữ hoàng các loài chim.”
“Đừng có nhìn tớ kiểu ý! Đó là một cái tên hết sảy dù cậu có thích nó hay không. Chẳng phải là một cái tên tuyệt vời sao, Madge?” Kate đưa cho con chim ưng một dải thịt lấy từ một cái túi được buộc kín trong chiếc giỏ. Cô bé hối thúc Reynie vuốt ve bộ lông của con chim (Reynie lo lắng làm theo) rồi lại thả nó đi. “Bố Milligan tặng nó cho tớ nhân dịp sinh nhật - chỉ mất một tá những lời gợi ý bóng gió và một tháng nài nỉ thôi - tớ đang huấn luyện nó. Nó thông minh cực kỳ.” Kate hạ giọng thì thầm cứ như sợ Madge đang cách đó cả trăm mét cũng có thể nghe lỏm được. “Nói riêng cậu với tớ thôi nhé, nó là một loài chim săn mồi hiếm có đấy. Tất nhiên là tớ không bao giờ nói cho cô nàng biết đâu.”
Reynie ngây người ngắm con chim ưng liệng cánh phía trên trang trại. Đúng là cái kiểu của Kate Wetherall, chỉ cho bạn xem một thứ cực kỳ ấn tượng thế rồi hành động như thể bạn không nên ngạc nhiên vì thứ đó. “Tớ nghĩ cậu cần có giấy phép mới được nuôi chim ưng,” Reynie bảo, “và phải trải qua nhiều năm huấn luyện đặc biệt nữa chứ.”
“Ôi trời, cậu thật là,” Kate tuột chiếc găng tay da bỏ trở lại cái giỏ. “Tớ đã có tất cả những thứ ấy từ hồi ở gánh xiếc rồi. Một người huấn luyện thú chuyên huấn luyện chim ưng để đi săn, ông ấy đã nhận tớ làm đồ đệ. Tớ học được tất cả từ ông ấy… nhưng bọn mình có thể nói chuyện đó sau được không?” cô bé gạt chủ đề đó đi bằng một cái phẩy tay nôn nóng. “Cậu kể cho tớ nghe chuyện về Sticky đi. Gần đây cậu có được tin tức gì từ cậu ấy không?”
Reynie sột soạt lôi từ túi áo ra một mớ giấy gập nhàu nát. “Thực ra cậu ấy gửi cái này cho mình vài ngày trước. Đó là một bản miêu tả về nhiệm vụ của tụi mình - cho thế hệ sau này, cậu ấy bảo thế, phòng khi nhiệm vụ này có lúc bị bại lộ. Cậu ấy nói tớ có thể cho cậu xem. Cậu ấy muốn tụi mình cho ý kiến.”
“Cậu muốn nói là cậu ấy viết lại mọi chuyện đã xảy ra á? Giống như một câu chuyện ấy hả?”
“À... kiểu kiểu như thế.” Reynie mở tập giấy và đưa cho Kate, cô bé lập tức ngồi bệt xuống đống cỏ khô để đọc. Có tất cả năm trang giấy, mặt trước mặt sau dày rịt toàn chữ là chữ được in ra, chỉ riêng cái tiêu đề đã gần dài bằng một lá thư của nàng Kate rồi. Nội dung như sau:
Chiến thắng của Hội Benedict Thần Bí trước Cỗ Máy Khủng Khiếp Biết Điều Khiển Suy Nghĩ có tên gọi là Máy Thì Thầm (theo kẻ phát minh ra nó, Ledroptha Curtain, anh em sinh đôi mất tích lâu ngày của ngài Nicholas Benedict, người đã đặt tên cho Hội): Báo Cáo Bí Mật.
“Bốc mùi khiếp!” Kate thốt lên.
“Cái tựa đề hả?”
Kate gật đầu và tiếp tục đọc:
Thực tế các bạn độc giả không biết đến kế hoạch thất bại trong việc sử dụng Máy Thì Thầm làm thay đổi ý nghĩ con người hòng trở thành kẻ thống trị thế giới của ngài Curtain. Bản báo cáo này sẽ mang đến cho các bạn những thông tin liên quan tới sự kiện này.
Bản báo cáo mở đầu với việc thành lập Hội Benedict Thần Bí. Thông qua một loạt các bài kiểm tra đã quyết định rằng George “Sticky” Washington (tác giả bản báo cáo này), Reynard Muldoon (hiện giờ tên đầy đủ là Reynard Muldoon Perumal, vì cậu đã được nhận làm con nuôi), Kate Wetherall, và Constance Contraire có đầy đủ các kỹ năng cần thiết để gia nhập vào Học Viện Siêu Tài Năng của ngài Curtain (ghép các chữ đầu có nghĩa là S.Ố.N.G) và hoạt động như các đặc vụ ngầm cho ngài Benedict. Tại học viện được nói tới trên, những đứa trẻ này đã khám phá ra nhiều điều đáng lo sợ. Sau đó họ đã vô hiệu hóa Máy Thì Thầm, mặc dù ngài Curtain và các trợ thủ thân tín của ông (được gọi là những Điều hành viên) không may đã trốn thoát để không bị sa lưới pháp luật. Nhưng tôi nhận thấy mình đã đi đến phần kết. Cho phép tôi quay trở lại từ đầu và hoàn chỉnh phần giới thiệu đầy đủ trình tự các sự kiện...
Bản báo cáo cứ tiếp tục như thế, quanh đi quẩn lại, vòng vo tam quốc trong khi Sticky nỗ lực hoàn thành một bản tóm tắt chính xác về những cuộc phiêu lưu của cả bọn. Ví dụ có một đoạn dành toàn bộ để nói về nguồn gốc từ “khiếp hãi” đoạn sau lại nói về cảm giác tò mò về tình trạng bị cô lập trên những hòn đảo (trái ngược với các bán đảo), và rồi vẫn đoạn đó là nhắc đến hình phạt độc ác trong các trường học. Tới khi Kate đọc được tới trang thứ hai, hai vai cô bé đã buông thõng cả xuống. Thở dài thườn thượt, cô nàng lật sang trang cuối cùng và đọc câu kết: “Và đây là phần kết của bản báo cáo.” Cô bé ngẩng lên nhìn Reynie. “Cái... ừm, toàn bộ cứ kiểu kiểu như thế này à?”
“Mình e là vậy đấy.”
“Nhưng làm sao cậu ấy có thể nêu bật được sự kiện thú vị nhất, nguy hiểm nhất, quan trọng nhất trong đời cậu ấy - trong cuộc đời bất kỳ ai - khi mà quá… quá…”
“Quá rối rắm hả?” Reynie gợi ý.
Kate ngả người lên đống cỏ khô mà cười rúc rích. “Ôi, tớ không thể đợi đến lúc gặp cậu ấy được!”
“Đừng làm khó cậu ấy quá. Có lẽ cậu ấy đã chui ra khỏi cái vỏ bọc của mình, nhưng vẫn còn rất nhạy cảm.”
“Tớ chắc chắn sẽ ôm hôn trước khi trêu ghẹo anh chàng này,” Kate đáp.
Reynie rụt đầu lè lưỡi. Cái ôm của Kate có khi còn làm Sticky tổn thương hơn cả trò trêu chọc của cô nàng ấy chứ.
“Thôi, ngả ngốn đủ rồi,” Kate kêu lên, dù vừa mới nằm lăn ra được có ba giây. Cô bé đứng bật dậy. “Cậu không nhận xét gì về cái giỏ của tớ à?”
“Tớ đang định nói đây,” Reynie đáp. “Tớ thấy là cậu đã có thêm vài cải tiến.”
Kate hối hả trưng nó ra cho cậu bạn xem. Cái nắp đậy thông minh mới dễ dàng mở ra nhưng đóng lại thật chắc chắn, nó giữ cho các món đồ bên trong không còn bị rơi ra ngoài như hồi trước. Hơn nữa, bên trong Kate cho gắn thêm mấy cái túi nhỏ được đóng lại bằng dây, dây đai và khóa kéo nên mọi thứ có thể được cố định gọn gàng đúng chỗ. Cuộn dây thừng của Kate vẫn luôn nằm ở dưới đáy giỏ, gài gọn ghẽ dưới những cái túi nhỏ.
“Thật ấn tượng,” Reynie thốt lên, kiểm tra thử cái chốt ẩn làm cho nắp giỏ mở bật được ra.
Kate cười rạng rỡ. “Bố Milligan thiết kế cái nắp đấy. Bố tớ đã gợi ý rằng một cái dây đai đeo thắt lưng sẽ hữu ích và đỡ cồng kềnh hơn một cái giỏ, nhưng tớ nhắc ông nhớ rằng không thể đứng lên một cái dây đai để với một món đồ ở trên cao được…”
“Hoặc đổ đầy nước vào trong và thả nó lên đầu bọn truy đuổi,” Reynie nói thêm, nhớ đến lần Kate đã làm thế để thoát khỏi Jackson và Jillson, những Điều hành viên hung dữ nhất của ngài Curtain, bọn chúng đã đe dọa uy hiếp bọn trẻ ở Học viện.
“Chính xác! Và bố Milligan đã hiểu ý tớ, nên ông đề nghị giúp tớ cải tiến cái giỏ này thay vì bỏ nó đi để dùng thứ khác. Xem này,” cô bé nói rồi bước lên đứng trên nắp giỏ. “Không còn chỗ trống và nó không bị lật ngửa nữa. Nó giúp tiết kiệm thời gian lắm, cậu biết đấy.”
Thật khó mà kịp hình dung ra Kate đang làm gì, nhưng Reynie đã nhận biết được sự cải tiến đó. “Thế dạo này cậu đựng gì trong đó thế? Ý mình là ngoài quà vặt và cái còi của chim ưng ra.”
Túi nọ sát túi kia, Kate chỉ cho Reynie xem các thứ đựng bên trong chiếc giỏ. Cô bé nói thật may là bố Milligan đã phục chế được vài thứ mà cô bé buộc phải bỏ lại ở Học viện - chiếc kính thiên văn nhỏ (mà cô bé đã ngụy trang cho nó y như là một cái kính vạn hoa), con dao quân dụng Thụy Sĩ, cái nam châm hình móng ngựa và chiếc đèn flash - cô cũng thay thế vài món đồ đã mất hay bị hỏng, như khẩu súng cao su và những hòn bi, cuộn cước dây câu cá sạch sẽ, tuýp keo siêu dính và cả cây bút nhớ dòng. Thêm nữa, cô mới bổ sung một cây cọ vẽ có kích cỡ bằng một cái bút chì và một chai nước chanh.
“Tớ đã phải đợi để nói riêng với cậu đấy,” Kate tỏ vẻ tinh quái. “Cậu biết thủ thuật với nước chanh ép chứ? Từ bây giờ tớ sẽ dùng bút lông viết những lời nhắn bí mật lên các lá thư của tớ, và thế là những kẻ rình mò của chính phủ sẽ không thể nào thấy được. Cậu chỉ cần giơ tờ giấy lên trước một ngọn nến là chữ sẽ xuất hiện.”
Reynie cười thầm. Cậu chẳng lạ gì với trò nước chanh này nhưng chưa bao giờ có cơ hội dùng nó. “Còn cái gì trong túi cuối cùng thế?” cậu hỏi, chỉ vào một cái túi còn chưa được mở.
“Ồ, chỉ là những cái này,” Kate nói, rồi có phần ủ rũ, lôi ra một chùm ít nhất hai tá chìa khóa, có kích thước khác nhau và phong phú đủ loại. “Chìa khóa nhà. Chìa khóa xe tải. Chìa khóa kho thóc, chìa khóa chuồng gà, chìa khóa của tất cả các cổng và tủ chạn, nhà kho chứa đồ. Bố Milligan tin tưởng làm thế sẽ giữ mọi thứ được an toàn.” Cô bé thở dài não nề rồi nhét chùm chìa khóa trở lại cái túi nhỏ.
“Có chuyện gì à?” Reynie hỏi.
“Không có, thật đấy,” Kate đáp. “Chẳng có gì quan trọng cả, ít nhất là thế - và tớ nghĩ đấy lại chính là rắc rối. Tớ yêu trang trại này, cậu biết đấy, và tớ vui được ở đây. Chỉ là có đôi lúc có cảm giác nó hơi nhàm chán. Sau tất cả những điều thú vị mà chúng mình đã trải qua, những chuyện quan trọng mà bọn mình đã hoàn thành - à, mọi thứ từ đó trở đi dường như có hơi tầm thường. Chúng mình là những đặc vụ bí mật, Reynie ạ!” Khi nói những lời này, đôi mắt Kate ánh lên một tia sáng rất quen thuộc. Thế rồi cô bé tự cười giễu mình. “Thế nên khó lòng mà thấy hứng thú khi chỉ có chùm chìa khóa để mở cửa vào hầm rượu không thôi. Ý mình muốn nói là thế đấy.”
“Ồ, cậu không đơn độc đâu,” Reynie nói. “Từ khi cô Perumal nhận nuôi mình, mọi thứ đều rất tuyệt vời, nhưng mình vẫn cảm thấy lúc nào cũng không thể nghỉ ngơi được - giống như là mình đáng lẽ phải làm một chuyện gì đó khẩn cấp mà không thể nói đó là gì.”
“Thật à?” Kate hỏi, trong một thoáng hai đứa im lặng nhìn nhau. Chỉ cần một cái nhìn cũng đủ truyền tải mọi điều cả bọn đã cùng nhau chia sẻ: hiểm nguy, khó khăn, dĩ nhiên cả chiến thắng của nhiệm vụ bí mật nữa, nhưng đồng thời có cả sự thấu hiểu - cảm giác cô độc khi phải ở một mình cũng như cảm giác ly kỳ khi cả bọn ở bên nhau - chúng biết về những thứ mà trên thế giới này không ai khác biết được, những chuyện chúng có thể sẽ không bao giờ nói ra trừ phi nói với nhau.
“Tớ cho rằng đấy chỉ là cảm giác vỡ mộng bình thường thôi,” cuối cùng Kate lên tiếng. Cô bé đi tới góc vựa cỏ. “Dù sao cũng không tệ đến thế đâu. Tớ luôn làm những gì có thể để khiến mọi việc thú vị hơn.”
Nói đến đó, cô bé nhảy lên kéo một sợi dây thừng nhỏ treo thòng lòng xuống từ thanh xà phía trên mái nhà. Một cánh cửa sập mở ra dưới chân Kate, cô bé tinh nghịch vẫy tay rơi xuống cái lỗ đó và biến mất. Reynie nghe tiếng cô đáp xuống nền đất ở dưới đến phịch một cái. “Đi nào!” cô gọi với lên. “Chúng mình đi hái ít táo đi.”
Reynie lắc đầu rồi đi đến chỗ cái thang. Rốt cuộc, Kate vẫn cứ khoái những thứ thú vị và vương vấn mãi những cuộc phiêu lưu đã qua cũng chẳng được gì. Nếu có bất cứ điều gì khiến Reynie lấy làm vui sướng - cậu đã thực lòng vui sướng - thì đó là cùng với những người bạn không còn phải trải qua nguy hiểm nữa. Dù sao thì, ai cần mạo hiểm cơ chứ? Chắc chắn không phải Reynie rồi!
Nhưng dù Reynie có cần nó hay không cũng chẳng thể ngờ được nguy hiểm gần như chắc chắn đang chờ đợi cậu và bạn bè.
Và sẽ chẳng phải chờ đợi lâu.
Mục Lục

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 2

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 2: Lời cảnh báo vô hình

Kate và Reynie dành phần còn lại của buổi sáng làm các công việc lặt vặt. Cũng hay hay, đặc biệt khi hai đứa vừa làm vừa tán chuyện. Trong khi hái táo từ mấy cái cây sai trĩu quả, Kate kể cho Reynie về năm học vừa qua (các lớp học cũng dễ chịu nhưng kê nhiều bàn học quá). Trong khi hai đứa đổ đầy nước vào các máng ăn của gia súc, cô bé miêu tả tình trạng tuyệt vọng khủng khiếp của cái nông trang cũ kỹ này khi cô và Milligan mới trở về. Rồi trong khi tra dầu vào cánh cửa bãi thả gia súc, cô bạn dông dài kể đến việc bố Milligan thỉnh thoảng trở về nhà vào nửa đêm sau một nhiệm vụ bí mật, đánh thức cô dậy nói chuyện hàng giờ đồng hồ ra sao.
“Chuyện đó mình thấy cũng hay,” Kate vừa nói vừa kiểm tra cái bản lề cửa để chắc chắn nó đã hoàn toàn trơn tru và không còn bị kêu rin rít. Cô ném sang Reynie một cái nhìn ranh mãnh. “Bố kể cho tớ tất cả các bí mật hàng đầu đấy nhé.”
Reynie nhướn lông mày. “Như thế nào?”
“Tốt hơn tớ nên đợi để kể cho cả cậu và Stick nghe cùng một lúc,” Kate nói. “Tớ chắc là cậu ấy cũng sẽ muốn nghe đấy.” Cô bé tỏ vẻ trầm ngâm một lúc, rồi miễn cưỡng nói thêm, “mà tớ cũng nghĩ là chúng mình nên đợi cả Constance tới nữa.”
“Thế thì ít nhất hãy kể cho tớ nghe về cái thứ kia đi,” Reynie vừa nói vừa chỉ về phía hai con gà trống mà cậu trông thấy ở góc quanh của kho thóc. Hai anh gà đang châu đầu vào một cái xe goòng nhỏ xíu đựng đầy những hạt lúa mỳ, rồi với những bước chân nhỏ bé liêu xiêu cùng một loạt những tiếng cùng cục lẫn tiếng đập cánh phành phạch, hai chàng kéo cái xe goòng đi về phía chuồng gà.
“Gà vận chuyển,” Kate gật đầu mãn ý. “Một trong những dự án về vật nuôi của tớ đấy.” Cô bé liếc nhìn Reynie để dò xem cậu bạn có hiểu ý câu nói đùa của mình không, nhưng cậu dường như còn quá bận để ý đến màn trình diễn của cái giống lông vũ kia nên chẳng nhận ra.
“Gà kéo xe goòng,” Reynie thốt lên (cậu lịch sự giả vờ như không nghe thấy câu đùa của Kate). “Cậu làm thế nào mà được như thế?”
“Ồ, huấn luyện gà con dễ mà,” Kate nói. “Phần khó nhất là huấn luyện Madge để nó không săn lũ gà - tớ đã mất hai con gà với Madge trước khi thuần dưỡng được nó đấy.” Cô bé ngừng lại một lát để tưởng niệm mấy chú gà không may mắn kia, rồi tiếp tục hào hứng nói. “Tớ đã kể với cậu là tớ học được rất nhiều thứ từ người huấn luyện thú, nhớ không? Tớ đang huấn luyện các con vật trong trang trại làm việc vặt. Bố Milligan thường đi vắng, nên nhà tớ cần nhiều sự giúp đỡ với công việc nông trang. Có thể dùng ngay những gì chúng tớ có thật tốt phải không?”
“Xuất sắc quá đi ấy chứ,” Reynie nói với vẻ chân thành tột độ. “Lũ gà tự cho chúng ăn, và lũ gia súc thì tự mở đóng cửa chuồng.”
“Cậu nhìn thấy rồi à?” Kate hỏi, vẻ mặt vui sướng. “Đúng, chúng nó đến và đi mỗi khi Moocho rung chuông trong trang trại.” Cô chỉ về phía vườn cây ăn trái. “Nói đến Moocho, bây giờ anh ấy đang ở đây. Này, Moocho! Đây là Reynie!”
Kate đã từng nhắc đến Moocho Brazos trong những lá thư, nên Reynie biết mọi điều về anh ta. Ví như cậu biết Milligan muốn có ai đó giúp đỡ việc đồng áng, đồng thời chăm sóc Kate khi ông đi xa làm nhiệm vụ, và rồi Kate đã thuyết phục bố thuê một trong những người bạn cũ của cô bé ở gánh xiếc. Nhưng lúc này, khi dáng vẻ ngăm đen của Moocho Brazos hiện ra từ chỗ những cây táo, Reynie mới nhận ra Kate đã lờ lớ lơ đi không đề cập một vài chi tiết khác. Bây giờ thì cô bạn rõ ràng không cần phải nói gì thêm vì nhìn trực diện thấy rõ những cơ bắp săn chắc, to lớn của Moocho, mái tóc xõa xuống bóng mượt, bộ ria mép cong cong cho biết anh ta chính là Lực Sĩ của gánh xiếc.
Moocho đang bê cái chậu nặng trình trịch đựng đầy những trái táo mà Reynie và Kate hái lúc ban sáng. Hai đứa để nó lại ở tít bên rìa vườn cây để Moocho mang về bằng xe tải của trang trại, Reynie đã nghĩ vậy vì tin chắc không ai có thể bê nó mà đi nổi vài bước. Nhưng Moocho đã đi bộ và trên đôi tay anh là chậu táo trông nhẹ nhàng chẳng khác gì một cái bát tô đựng mấy trái sơ-ri.
“Vậy em chính là Reynie Muldoon tuyệt vời đó hả,” anh ấy cất tiếng khi đi đến nơi. “Anh đã được nghe kể rất nhiều về em.” Dù có vẻ bề ngoài khí thế đến bức người, nhưng giọng nói êm ái, trầm bổng của Moocho lại khiến người ta bất ngờ ngoài sức tưởng tượng ngang với cách phục trang của anh ta - một cái tạp dề hoa mặc bên ngoài bộ áo liền quần lao động và đôi dép đi trong nhà. Anh đặt cái chậu xuống và cầm lấy tay Reynie siết nhẹ. “Rất vui được gặp em.”
“Ngủ nướng đúng không anh Moocho?” Kate hỏi.
Moocho ngáp dài lập tức cứ như bắt được ám hiệu. “Bọn mình đã thức khuya để đợi còn gì.”
“Chỉ có Madge và em mới thức khuya. Anh thì leo lên giường ngáy ầm ầm từ lúc chín giờ rồi.”
“Em biết tỏng rồi còn gì nữa, thời gian ngủ của anh rất dài mà,” Moocho nói, “vậy nên đừng có quạu cọ, cô nương. Trừ phi, em không quan tâm đến miếng bánh táo nào của anh tối nay.”
Kate lập tức thấy hối tiếc vì lời trêu chọc của mình, sau đó kể cho anh về chiếc xe hỏng. Moocho đề nghị đi đón cô Perumal và mẹ của cô bằng xe tải của trang trại, nhưng Reynie bảo họ sẽ đến đây sớm thôi. Người thợ sửa xe đã hứa rằng chiếc xe sẽ được sửa xong trước buổi trưa.
“Vậy đến lúc đó nếu họ chưa tới đây, anh sẽ đi đón,” Moocho nói, bê cái chậu táo lên đi vào nhà. “Chúng ta không thể để họ phải ăn trong thị trấn - quán ăn đó kinh khủng lắm.”
Reynie nhìn anh đi khỏi mà vẫn còn lấy làm kinh ngạc làm sao anh bê được cái chậu ấy dễ như chơi thế. “Tớ đã hiểu lý do cậu xin bố Milligan thuê anh ấy rồi. Anh ấy chắc phải làm việc bằng tới mấy người ý.”
“Ồ dĩ nhiên, tớ cũng nghĩ thế,” Kate nói, miệng cười ngoác đến tận mang tai. “Nhưng hãy đợi cho tới khi cậu thử món bánh của anh ấy nhé. Rồi cậu sẽ biết lý do đích thực.”
***
Đến trưa thì thấy Reynie và Kate vắt vẻo trên nóc mái nhà. Hai đứa lên đấy để thay một tấm lợp mái bị vỡ và chỉnh một cánh quạt gió, sau rốt thì nấn ná luôn ở đấy để ngắm nghía bao quát cảnh vùng quê. Từ trên cao tầm nhìn thật tuyệt vời, Kate chỉ về phía cái ao sủi bọt xa xa, kỷ niệm mới nhất của cô là bơi cùng bố Milligan ở đó. Bỗng một âm thanh từ đâu vọng lại thu hút sự chú ý của cả hai. Chúng quay ra trông thấy một đám bụi mù mịt bốc lên trên con đường nhỏ ở tít xa.
“Chắc là Amma và Pati đấy,” Reynie nói, nhưng Kate đang săm soi đám bụi mù mịt đó bằng cái ống nhòm nhỏ thì khẽ thở hổn hển xúc động rồi la lên: “Tất cả bọn họ ở đây rồi, Reynie ơi! Ý tớ là cả Sticky cũng ở đây rồi!”
Reynie cầm lấy cái ống nhòm - Kate dúi nó cho cậu với sự sốt sắng khiến cậu sợ là cô bạn sẽ hất cậu ngã nhào khỏi mái nhà mất - và chứng thực là dưới con đường bụi mù kia cô Peramal và mẹ cô đang ở trong cái xe thùng chở hàng, theo sau là một chiếc ô tô kín mui: những người nhà Washington đã đến sớm hơn mong đợi.
Kate bò xuống mép mái, tóm lấy hai cạnh chiếc thang và trượt thẳng xuống như thể đó là cái cột trong các trạm cứu hỏa, bỏ qua tất cả các bậc thang. Đến khi Reynie xuống được đến nơi theo đúng cách trèo thang truyền thống thì sân trang trại đã đầy ô tô, người nhà Perumal và người nhà Washington đang tán chuyện sôi nổi với Moocho Brazos (anh chàng đã khẩn trương đi ra chào đón họ), còn Kate đang giúp Sticky từ dưới đất đứng dậy và phủi bụi cho cậu bạn.
Trước sự kinh ngạc của Reynie, Sticky trông y hệt như một năm trước: cậu vẫn gầy tong teo với làn da nâu nâu, đôi mắt lo lắng (dù có thể vẻ lo lắng đó chỉ là do chưa kịp lấy lại hơi thở), và cái đầu trọc lóc luôn. Cái khoản hói cả đầu này mới là phần đáng ngạc nhiên. Lần cuối cùng Reynie thấy Sticky thì tóc của cậu bạn đã mọc lại, giờ thì nó biến đâu mất tăm. Cả cặp kính dày cộp của cậu bé cũng đang mất tích, nhưng chuyện này chỉ là vì Kate đang nhặt nó lên từ chỗ cái ôm nồng nhiệt của cô bé làm chúng văng ra thôi.
Vừa ôm siết hai bên mạng sườn của mình, Sticky vừa mếu máo cười với Reynie. Rồi hai cậu bé phá lên cười vang và ôm chầm lấy nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Xung quanh họ, mấy người lớn đang trò chuyện râm ran về bộ chế hòa khí bị lỗi, về việc có một khoảng thời gian tuyệt vời trên đường cao tốc và tình cờ gặp nhau bất ngờ trong thị trấn. Ông Washington đang lấy cái xe lăn từ trong xe tải ra cho bà Washington, hai đầu gối của bà có vấn đề khiến bà không đi lại nhiều được, tuy thế bà vẫn cố tiến vài bước khó khăn đến ôm Reynie và Kate. Một người phụ nữ thấp lùn với làn da màu quả óc chó, bờ vai hẹp và cái miệng có vẻ hay hờn dỗi trái ngược hẳn với sự hiền từ tốt bụng trong đôi mắt bà. Bà Washington không thể nào ngưng lắc lắc đầu trong khi đôi tay bà xoay xoay mặt bọn trẻ hết sang trái lại sang phải.
“Hai đứa đều trông có vẻ già dặn hơn nhiều rồi đấy,” bà rầu rầu nói, như thể không chịụ nổi ý nghĩ ấy. Ông Washington tiến đến cùng với chiếc xe lăn, vợ ông liền hạ người ngồi vào rồi chấm chấm đôi mắt long lanh. Ông Washington là phiên bản to lớn hơn của Sticky - cao, mảnh khảnh và đeo kính - không nhiều lời, ông cười trìu mến và chào lũ trẻ với những cái vỗ vai dè dặt.
Trong khi đó, cô Perumal (hai cánh tay bắt chéo sẵn sàng bảo vệ hai bên mạng sườn) đi đến ôm Kate. “Cháu xinh tuyệt, cháu yêu! Ôi! Cô thấy cháu đã lắp một cái nắp vào chiếc giỏ rồi! Thật thông minh!”
Kate cười rạng rỡ - cô bé luôn phổng mũi mỗi khi có ai khen cái giỏ của mình - và chỉ vì muốn được chuồn đi nói chuyện riêng với hai cậu bạn mới ngăn được cô bé mở cái giỏ ra chỉ cho cô Perumal toàn bộ các thứ đựng bên trong. Cả bọn sẽ phải đợi thật lâu nữa mới ở riêng được với nhau, đầu tiên hành lý phải được mang vào nhà, bữa trưa phải ăn, bát đĩa phải được rửa sạch sẽ, khách khứa phải được an vị ở phòng riêng - tất cả những chuyện đó hoàn toàn ổn thỏa vui vẻ nhưng chắc phải mất thời gian lâu lắm mới hoàn thành xong được. Đến giữa buổi trưa thì ba người bạn trẻ đã liên tục liếc mắt với nhau vẻ khao khát, nên khi cô Perumal yêu cầu mấy đứa tránh đi để người lớn có thể nói chuyện riêng, chúng liền vọt thẳng ra cửa.
Nhưng, khi cả bọn đi ra vườn cây ăn trái, Sticky nghi ngại quay nhìn về phía ngôi nhà. “Tớ thắc mắc tại sao họ lại muốn nói chuyện riêng nhỉ?”
“Đấy là điều bất ngờ của ông Benedict,” Reynie nói. “Họ cũng tham gia vào đó.”
“Họ ư? Vậy điều đó giải thích lý do vì sao bố mẹ tớ cứ thì thầm suốt. Tớ còn tưởng họ đang bàn bạc về việc mẹ tớ kiếm được công việc thứ hai chứ. Họ biết tớ sẽ sống chết phản đối nó. Các cậu biết đấy, tớ sẽ lập tức quay lại tham gia cuộc thi vấn đáp, nhưng họ lại sống chết phản đối chuyện đó.”
Từ những lá thư của Sticky, Reynie biết rằng bố của cậu ấy đang phải làm hai công việc một lúc. Tài chính của gia đình họ đang căng kinh khủng vì những sự kiện bất hạnh dẫn đến chuyện năm ngoái. Trí nhớ phi thường và khả năng đọc của Sticky khiến cặu bé trở thành quán quân cuộc thi vấn đáp không có địch thủ, nhưng cậu lại phải chịu một áp lực tồi tệ để kiếm tiền cho gia đình và sau cùng đã chạy trốn khỏi nhà. Gia đình Washington đã chi đến từng đồng xu cuối cùng - thực tế là đã lún sâu vào nợ nần - để tìm Sticky và mang cậu trở về với họ. Từ đó họ không tin vào sự cám dỗ của tiền bạc nữa và ương gàn không để Sticky phải chịu những áp lực khác thường. (“Họ thậm chí không thể ở yên để nghe mình kể về thời gian cả bọn ở Học viện,” Sticky đã viết thế. “Chỉ nghĩ đến việc mình gặp nguy hiểm đã khiến họ run rẩy rồi.”) Vì thế mà gia đình Washington vẫn khá nghèo.
“Làm sao cậu phát hiện việc họ biết về điều ngạc nhiên kia?” Sticky hỏi khi cả bọn an vị dưới bóng râm của những cây táo.
“Amma nhận được một lá thư của ông Benedict,” Reynie nói. “Tớ nhìn thấy nó trên bàn phấn của cô ấy, nhưng cô ấy lại lờ đi không đề cập nó với tớ, rồi sau đấy tớ nghe lỏm được một mẩu đối thoại của cô ấy với Pati. Pati bị nặng tai, nên Amma phải nói to. Không có gì trong đó cho tớ đủ manh mối cả, nhưng tớ có thể nói họ biết điều gì đó mà tớ không biết. Không lâu sau đấy tớ nhận được thư ông Benedict gửi cho - bức thư ông gửi cho tất cả chúng mình - và tớ biết bọn mình được chuẩn bị cho thứ gì đó hay ho.”
“Dĩ nhiên nó sẽ hay ho rồi! Làm sao lại không như thế cơ chứ?” Kate nói, ngả người ra sau chống trên hai khuỷu tay với một nụ cười thỏa mãn. “Nó đã tuyệt vời rồi. Chúng mình với nhau, không phải sao? Và ngày mai bọn mình sẽ gặp ông Benedict!”
“Không kể đến Rhonda và cô Số Hai,” Reynie thêm, ám chỉ tới hai trợ lý xuất sắc của ông Benedict (đồng thời cũng là hai cô con gái nuôi của ông, mặc dù điều này không mấy người được biết). “Tớ không thể đợi tới lúc gặp cả họ nữa.”
“Tớ cũng thế!” Sticky nói bằng một tông giọng có phần được nén lại, “Và, à… cả Constance nữa, dĩ nhiên là thế. Còn chú Milligan thế nào hả Kate? Lúc ăn trưa cậu nói chú ấy sẽ gặp bọn mình ở nhà ông Benedict, nhưng chú ấy không ở đây à?”
“Đó là kế hoạch, nhưng rồi bố tớ nhận được triệu tập phải đi thực thi một nhiệm vụ.”
“Nhiệm vụ gì?” cả Reynie và Sticky cùng hỏi một lúc. Cả hai đứa đều đang đói thông tin.
Kate nhún vai. “Không biết. Bố chẳng bao giờ kể với mình bất cứ điều gì trước khi thực hiện nhiệm vụ cả, chỉ sau đó thôi. Mình thường xuyên đọc báo để tìm manh mối, dĩ nhiên - mình thích có thể nói với bố là mình đã tìm ra được ông làm gì - nhưng mình chẳng bao giờ tìm thấy điều gì cả.”
“Vậy nên cậu vẫn tiếp tục,” Sticky nói. “Mình đã hỏi về chuyện ấy trong lá thư cuối cùng đấy, nhưng cậu chẳng hồi âm gì cả.” Giọng cậu bé có hơi bực bội, nhưng Kate hoặc là phớt lờ nó hoặc là vô tình chẳng để ý.
“Tất nhiên tớ vẫn tiếp tục chứ! Nhưng tớ không giống cậu, Sticky. Tớ không thể đọc mười tờ báo mỗi sáng được, và một nửa trong số chúng lại là ngoại ngữ nữa chứ. Tớ chỉ đọc tờ Thời báo Thành phố Đá thôi. Tại sao ấy à? Cậu có thấy bất cứ điều gì khả nghi không?”
Sticky cằn nhằn. “Tớ ước gì có. Thế còn cậu thì sao, Reynie?”
Mặc dù cuộc trò chuyện này có vẻ thật kỳ lạ nếu có người nghe trộm được (vì hiếm khi nghe thấy trẻ con bàn luận về báo chí, mà hơn nữa lại nghe một đứa hỏi liệu có thấy gì “khả nghi” không), nhưng đối với Reynie và những người bạn của cậu thì chuyện đó là hoàn toàn bình thường. Cả bọn đã có thói quen lâu nay là đọc báo - thực tế chính một quảng cáo trên báo đã dẫn chúng tới với ông Benedict - và kể từ sau nhiệm vụ đó chúng vẫn rà soát các tiêu đề báo hàng ngày với một sự hứng thú đặc biệt. Chúng không tin có bất cứ hành động nào liên quan đến ngài Curtain sẽ được tiết lộ và in ra nhưng khả năng một vài chuyện vô tình có thể tiết lộ ra mối liên hệ với điều gì đó thâm sâu hơn, đen tối hơn - điều gì đó bọn trẻ sẽ nhận ra cho dù những độc giả khác không để ý thấy. Chỉ riêng khía cạnh này là chúng vẫn cảm thấy giống như nhưng đặc vụ bí mật, dù việc đọc báo hàng ngày khó có thể coi là một công việc hứng thú.
Ví như sáng nay trên trang nhất tờ Thời báo Thành phố Đá chẳng có vấn đề gì tai hại tồi tệ hơn ngoài chuyện tài chính, vận chuyển hàng hóa và lâm nghiệp: TỶ LỆ LỢI TỨC TĂNG NHANH CHÓNG, một tiêu đề khác là: HẠ THỦY TÀU CHỞ HÀNG ĐỂ THỰC HIỆN CHUYẾN ĐI BIỂN ĐẦU TIÊN, một cái khác nữa là: BỌ CÁNH CỨNG ĂN HẠI Ở CÁC CÁNH RỪNG MIỀN NAM. Và các tin tức chỉ càng trở nên kém hấp dẫn hơn ở trang thứ hai.
“Khả nghi ư?” Reynie hỏi. “Không, trừ phi cậu nghĩ bọ cánh cứng là khả nghi. Mọi thứ tớ đọc đều chán hơn con gián.”
Hai mắt Kate sáng long lanh. “Này, cái đó làm cho tớ nhớ ra đấy! Sticky, tớ…”
Reynie húng hắng ho và đưa mắt cảnh báo cô bạn. Nhưng đã quá muộn. Sticky có thể chậm chạp trong việc nhận biết các mối liên quan, nhưng lại nhanh nhạy khác thường trong việc nhận ra những lời xúc phạm mang tính cá nhân. “Tiếp đi,” cậu bé nói, vùi mặt vào hai bàn tay. “Là về bản báo cáo điệp vụ của tớ đúng không?”
Giờ thì Kate trông có vẻ thật hối hận. “Ôi… không… tớ chỉ, à, sắp…” Cô bé nhìn về phía Reynie cầu cứu vô vọng, không thể nghĩ ra được phải nói gì.
Thật nhẹ nhõm làm sao, Sticky đã hạ tay xuống và mỉm cười. Đó là một nụ cười bẽn lẽn, nhưng ít nhất trông cậu bé không có vẻ bị tổn thương. “Cứ nói thẳng đi.”
“À, nó… đúng sự thực,” Kate nói.
“Và sâu sắc,” Reynie bổ sung, vội vàng lôi bản báo cáo từ trong túi áo ra với hy vọng tìm thấy thứ gì đó để tán dương thêm.
Kate sôi nổi gật đầu trong khi Reynie giở các trang giấy ra. “Ồ, đúng thế, nó rất sâu sắc! Và chuẩn ngữ pháp!”
Sticky nhăn mặt. “Nó tệ thế cơ à? Ồ, tớ đã biết sẽ thế mà. Các cậu đáng lẽ phải thấy mấy bản nháp trước cơ. Bản này là cố gắng lần thứ sáu của tớ đấy.” Cậu cầm lấy bản báo cáo từ tay Reynie và nhìn lướt qua nó vẻ buồn bã trước khi nhét nó vào túi áo. “Đừng bận tâm, tớ nghĩ có lẽ không bao giờ xuất bản nó đâu. Tớ chỉ muốn làm gì đó để kỷ niệm dịp này thôi mà.”
Reynie bất chợt nhìn thấu được vấn đề. “Đó là lý do tóc cậu biến mất sạch, đúng không? Ôi trời đất ơi!”
“Tớ nghĩ có lẽ cậu khoái chí với ý tưởng đó,” Sticky thú nhận. “Lần này là bố giúp tớ cạo đi - không cần phải dùng tới thuốc nữa.” Cậu bé rùng mình nhớ lại hồi ức đó.
“À, tớ thích nó đấy!” Kate nói, xoa xoa da đầu trọc lông lốc của Sticky, còn Reynie thì cười toe toét và gật đầu tán thành.
Ba đứa nấn ná ở vườn ăn trái rất lâu, say sưa nói chuyện với nhau và hồi tưởng lại điệp vụ ở Học viện. Cười đùa, rên rỉ, thỉnh thoảng lại rùng mình khi nhớ lại những gì chúng đã trải qua - tất cả vẫn còn đọng lại rực rỡ hoàn hảo trong hồi ức của chúng - mấy đứa để buổi chiều chậm chạp trôi qua. Khi Kate nhận ra bóng tối đã buông xuống trên sân trang trại, cô bé mới giật mình bật dậy.
“Ôi chao! Mọi người sắp gọi chúng mình vào nhà rồi mà Sticky còn chưa gặp Madge nữa!”
“Madge là ai?” Sticky hỏi.
“Nữ Hoàng Bệ Hạ!” Kate nói, như thể lời này giải thích hết mọi điều vậy. Cô bé nôn nóng kéo hai cậu bạn đứng lên và thúc đi ra sân trang trại, ở đó cô bé lại thổi cây còi và đút tay vào găng bảo vệ. Gần như ngay lập tức chú chim ưng xuất hiện, liệng cánh lao xuống từ một độ cao không nhìn thấy rõ rồi đậu lên cổ tay Kate.
Vẻ mặt hoang mang bối rối của Sticky nhạt dần thay vào đó là vẻ lo lắng. Mặc dù cậu sẵn lòng bộc lộ sự ngưỡng mộ với sinh vật móng sắc ngay lúc này đang chiếu tướng cậu bằng đôi mắt đen sáng quắc (“Chim ưng”, cậu thốt lên, gật gật đầu khi quay lưng đi, “giống chim ấn tượng... thần tốc nhất trong những loài săn mồi...”), cậu bé cũng không thích thú làm quen với nàng chim này. Với dáng vẻ thất thần hết mức, Sticky lấy một miếng vải từ túi áo ra và tháo cặp kính mắt.
Reynie cười thầm một mình. Cậu chẳng lạ gì thói quen lau chùi cặp kính của Sticky mỗi khi lo lắng bồn chồn, và nhìn cậu bạn làm thế ngay lúc này thật là một cảm giác thỏa mãn ngoài mong đợi. Reynie cảm thấy vui sướng tột độ khi biết rõ về một người bạn khá thích việc chia sẻ một mật mã bí mật như thế. Đồng thời cũng thật mừng khi không phải là đứa duy nhất thấy sợ con chim ưng của Kate.
“Đừng lo, Madge,” Kate nói trong khi cho con chim ưng ăn một miếng thịt sống, “tao sẽ quay về trước khi mày kịp nhận ra.” Rồi cô bé lại thả Madge lên cao, tặc lưỡi nói, “con vật tội nghiệp, các cậu có thấy nó lo lắng đến thế nào không? Cô bé biết tớ sắp đi xa. Tớ nghĩ điều đó làm cho nó bất an.”
“Ồ, đúng thế,” Sticky phụ họa vào kèm theo một cái liếc mắt đầy ẩn ý với Reynie. “Con vật tội nghiệp.”
Reynie vỗ vỗ lên lưng Kate. “Tớ chắc nàng chim ăn thịt của cậu sẽ tốt thôi.”
***
Moocho Brazos đã chuẩn bị xong một bữa ăn thịnh soạn, và bữa tối hết sức náo nhiệt, thỏa thuê, vui vẻ, với tiếng mọi người trò chuyện râm ran và các đĩa đồ ăn không ngừng được chuyển qua chuyển lại. Moocho đã làm sẵn rất nhiều bánh táo để tráng miệng, trong khi thực tế chỉ có sáu người ăn, và sự ngon miệng của mọi người được Moocho mang ra thử nghiệm.
Sau khi đống bát đĩa đã được dọn rửa, tiếng ồn ào vui vẻ lắng xuống và chuyện trò ngơi dần. Mọi người đã quá mức buồn ngủ. Đó là một ngày dài với tất cả, và một ngày đầy ắp các sự kiện khác đang đợi chờ họ phía trước. Bất chấp điều đó, lũ trẻ quyết tâm thức khuya, nhưng dù mới chỉ một năm trước chúng còn đang thực hiện một điệp vụ bí mật đưa ra các quyết định sinh tử thì bây giờ chúng cũng phải vâng theo mệnh lệnh của những người giám hộ - có nghĩa là đi tắm, chào tạm biệt chúc nhau ngủ ngon và đi ngủ.
“Ồ được,” Kate ngáp dài nói. “Chúng mình sẽ sớm tỉnh dậy thôi mà. Lũ gà trống gáy lúc mặt trời mọc, các cậu biết đấy.”
Và quả thế thật, tiếng gà gáy đánh thức Reynie tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau. Cậu lờ đờ ngồi dậy trên một cái nệm rơm trải dưới sàn nhà - trông thấy bầu trời bình minh xam xám xa tít bên ngoài cửa sổ và cô Perumal đang ngồi trên giường mỉm cười.
“Hôm nay là một ngày vĩ đại của con đấy,” cô nói. “Cô biết con rất háo hức. Nửa đêm con mới ngủ được phải không?”
“Cô dậy rồi ạ?” Reynie hỏi. Cậu quá mê mải với các suy nghĩ của mình đến nỗi không để ý đến hơi thở của cô Perumal. Nhưng rõ ràng là cô đã chú ý đến nhịp thở của cậu.
“Cô cũng háo hức,” cô Perumal nói. “Cô biết con sẽ thích điều ngạc nhiên của các con.”
Có điều gì đó trong biểu hiện của cô khiến Reynie chững lại. Cô vui mừng cho cậu, cậu biết - nhưng còn có điều gì đó khác nữa. Nó nhắc Reynie nhớ đến cái ngày cô lái xe đưa cậu đến dự các bài kiểm tra của ngài Benedict, khi đó cô đã cảm thấy tin tưởng cậu sẽ không còn cần đến cô với vai trò một gia sư nữa. Ánh mắt cô lúc này y như thế, nó phản chiếu sự hòa trộn giữa tự hào, kỳ vọng và một nỗi buồn thấy rõ. Nhưng bây giờ bọn họ đã là gia đình và Reynie biết không gì có thể khiến cô Perumal rời bỏ cậu. Vậy thì cô đang lo lắng về chuyện gì?
Ánh mắt cô Perumal đột nhiên thay đổi. Khẽ cười ngạc nhiên, cô quay mặt đi và khi quay lại cô khiển trách. “Cô quên mất con đọc được các biểu cảm khuôn mặt giỏi đến mức nào,” cô nói. Cô lúc lắc một ngón tay. “Con không được suy xét mọi điều quá kỹ càng, Reynie, nếu con không muốn làm mất đi sự ngạc nhiên của mình.”
Họ cùng nhau đánh thức mẹ cô Perumal dậy - giấc ngủ của bà chẳng hề bị ảnh hưởng bởi tiếng gà trống gáy, nhưng luôn dễ bị quấy nhiễu khi bị cù vào gan chân - và sau khi bà tỉnh giấc cười lớn và gọi hai cô cháu là những tên côn đồ, họ cùng dọn dẹp chuẩn bị sẵn sàng lên đường.
Cùng với cái cảm giác cam chịu, Reynie mặc chiếc áo sơ mi mà Số Hai gửi đến cho cậu vào tháng trước nhân dịp sinh nhật. Cậu biết nó là biểu hiện tình cảm yêu mến của cô ấy, nhưng vẫn không thể không nhăn mũi khi nhìn chiếc sơ mi này. Lý lẽ thuyết phục không thể phủ nhận của Số Hai là thời trang đẹp có nghĩa là sự kết hợp ăn ý giữa quần áo với màu da của người đó (tủ quần áo của cô hầu hết toàn bộ đều là màu vàng làm nổi bật thêm nước da mai mái vàng của cô), và thật hiển nhiên khi cô nghĩ chiếc áo sơ mi hoa hòe hoa sói tươi mát này sẽ hoàn toàn phù hợp với Reynie. Nó đúng là vừa vặn với cậu - phần nào thôi - nhưng Reynie không thể tưởng tượng nổi có chiếc áo nào xấu xí hơn, hay là kém thoải mái hơn (nó được làm từ vải bạt, “cho bền”, Số Hai đã viết như thế), còn bây giờ cậu mặc nó chỉ vì ngày hôm nay sẽ gặp cô.
“Cả cậu nữa à?” Sticky lầu bầu khi Reynie gặp cậu bạn ở hành lang. Sticky đang mặc một chiếc sơ mi màu nâu nhạt làm từ thứ chất liệu gì đó độn bông dày cộp - nửa thân mình cậu bé trông có vẻ phình ra - và đang nhễ nhại mồ hôi bất chấp không khí giá lạnh buổi sáng. (Reynie nhớ ra ngày sinh nhật của Sticky là vào tháng Một; không nghi ngờ gì nữa, cái áo này có vẻ phù hợp hơn với thời điểm đó.) “Họ bắt mình mặc nó,” Sticky nói, dứ dứ ngón cái về phía căn phòng cậu dùng chung với bố mẹ. Cậu bạn nhìn Reynie từ trên xuống dưới. “Cậu có nhận thấy cậu trông giống một cái túi xách không?”
“Ít nhất mình không sưng phồng lên,” Reynie trả miếng. “Đi tìm Kate thôi nào.”
Tuy nhiên, trước khi hai đứa kịp leo lên gác, Kate đã trượt xuống thành cầu thang rồi. Trước sự thất vọng của hai đứa, cô bạn đang mặc chiếc quần jean xanh lơ và một chiếc áo sơ mi bình thường đến hoàn hảo. Cô bé đáp xuống đất bên cạnh chúng với một nụ cười tươi rói vui vẻ. “Cả hai sao trông đẹp trai quá vậy trời! Các cậu sắp đi dự tiệc à?”
Sticky khoanh hai cánh tay độn bông dày cộp trước ngực. “Thế này thật không thể chấp nhận được, Kate. Cậu cần quay ngay lên trên đó và mặc vào món quà sinh nhật của cậu.”
“Chắc chắn rồi;” Reynie thêm vào. “Thắng áp đảo, Kate. Tất cả chúng ta chịu khổ cùng nhau.”
Kate đang cọ cọ vào ống tay áo vải bạt của Reynie để cảm nhận nó. Cô bé huýt sáo và tặng cho cậu bạn một cái nhìn thương tiếc. “Xin lỗi, nhưng cái của mình quá nhỏ nên mình đã cắt nó và làm những cái bao túi từ chỗ vải đó. Mình đã cho cậu xem chúng rồi phải không?” Cô bé hào hứng lật mở cái nắp giỏ. “Nó là một chất liệu rất bền, thế nên...”
“Cậu đã chọ bọn tớ xem rồi,” Sticky nói bằng giọng phòng vệ. “Rốt cuộc, quà của cậu vốn là cái gì thế?”
“Của mình á? Ồ, nó là một cái áo gile có tua rua.”
Reynie đưa mắt nhìn cô bạn vẻ ngờ vực. “Nó thật sự quá nhỏ à?”
“À ừm,” Kate bẽn lẽn cười nói. “Đến giờ thì sẽ là thế.”
***
Ngày vẫn còn khá sớm khi chiếc xe chở hàng và chiếc xe kín mui phóng đi, những con người háo hức đi trên đó mới nghỉ ngơi được một chút nhưng đã được ăn uống ngon lành. Moocho Brazos đứng trên sân trang trại vẫy tay tạm biệt cho tới khi mấy chiếc xe mất hút nơi ngọn đồi xa xa. Rồi anh thở dài, buồn bã vuốt vuốt bộ ria mép. Anh đã rất gắn bó với người bạn trẻ tràn trề sức sống ấy, nên trước sự ra đi của Kate, anh thấy trang trại giờ đây thật ảm đạm. Lắc đầu vẻ sầu muộn, Moocho hướng tới khu vườn nơi có khá nhiều cây đang cần được chăm sóc.
Vì vậy vài phút sau, khi một thanh niên đi chiếc vespa đến, sân trang trại chỉ còn trống không.
Đầu tiên chàng trai rung chuông gọi - anh ta kéo vài lần - rồi đi tới kho thóc nơi anh phát hiện ra một con gà trống đang tuyệt vọng dùng mỏ gắp thóc vào đầy cái xe kéo bé xíu. Quang cảnh này làm anh ta giật mình, nhưng nhanh chóng vượt qua thắc mắc trong lòng và tiếp tục cuộc tìm kiếm để xác định người nhận bức điện tín anh ta mang đến. Khi anh ta hướng ra phía sau kho thóc (sẽ mất ít thời gian trước khi anh ta thử tìm đến vườn cây ăn trái), người thanh niên này - một nhân viên của cửa hiệu tạp hóa trong thị trấn kiêm dịch vụ điện tín - đang hy vọng ít nhất có ai đó ở đây. Công việc của anh ta là chuyển phát điện tín cho “bất cứ ai ở trang trại Wetherall.” Anh ta biết ở đây không có điện thoại, điều đó lý giải nhu cầu cần có điện tín. Người chủ già nua ở cửa hiệu tạp hóa nói với anh ta đây là bức điện tín đầu tiên họ được yêu cầu chuyển đi trong nhiều năm nay. Và nó là một bức điện rất khẩn cấp, rất đáng tò mò. Nó ghi:
CÁC EM KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN STOP QUÁ NGUY HIỂM STOP GỌI CHO CHỊ NGAY VÀ CHỊ SẼ NÓI CHO CÁC EM BIẾT TIN TỨC STOP ÔI NÓ QUẢ THẬT LÀ TIN XẤU STOP NHẮC LẠI LẦN NỮA ĐỪNG ĐẾN NHƯNG GỌI ĐIỆN NGAY LẬP TỨC VÌ CHỊ LO SỢ CHO AN TOÀN CỦA CÁC EM STOP YÊU MẾN VÀ RẤT TIẾC RHONDA[1]
[1] Trong điện tín “stop” nghĩa là dấu chấm câu.
Mục Lục

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 3

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 3: Những ô cửa sổ soi gương

Lái xe đến nhà của ông Benedict ở Thành phố Đá sẽ mất vài tiếng, nhưng họ mới đi trên đường quốc lộ được hai mươi phút thì tâm trí Reynie đã ở đó rồi. Cậu ngẩn ngơ mơ mộng giữa ban ngày. Ở ghế trước chiếc xe thùng, mẹ cô Perumal đang ngâm nga hát, không để ý thấy giọng bà vang vọng cả xe. Cô Perumal đang cố nén một nụ cười. Còn ở ghế sau, ngồi cạnh Reynie, Kate và Sticky đang kể cho nhau nghe về cuộc sống của chúng. Đến sớm hơn Sticky và là người chăm viết thư hơn Kate, Reynie đã biết mọi chuyện hai đứa bạn kia lúc này đang kể cho nhau. Chẳng hạn, thực tế là Sticky đã có một cô bạn gái trong thời gian ngắn ngủi cho tới khi cô ta chia tay vì cậu đã khen ngợi vẻ ‘chim sa[2]’ của cô ấy. (“Cô ấy không tin tớ khi tớ bảo với cô ấy nó có nghĩa là ‘đẹp’,” Sticky ai oán nói. Kate lắc lắc đầu. “Tốt nhất là luôn dùng những từ đơn giản thôi. Nếu cậu nói câu đó với tớ, tớ lại chẳng cho cậu ăn đấm rồi chứ.”) Hoặc chuyện không giống như cô Perumal luôn cho là Reynie trưởng thành không bình thường ở tuổi của cậu và đang suy tính cho cậu vào một trường đại học - nhà Washington đã cấm bất cứ khả năng nào như thế đối với Sticky, cậu là đứa con yêu dấu giờ đây họ đặc biệt quan tâm. (“Tớ đã nói đi nói lại với bố mẹ hết lần này tới lần khác rằng tớ có thể xoay sở được,” Sticky nói. “Nhưng họ nhất định không thay đổi ý kiến.”)
[2] Sticky đã dùng từ pulchritude có nghĩa là đẹp để khen ngợi bạn gái, nhưng có lẽ đây là một từ hiếm dùng nên bạn gái cậu hiểu sai. Ở đây người dịch dùng cụm từ chim sa, trích từ thành ngữ chim sa cá lặn, để miêu tả vẻ đẹp hơn người của người con gái mà thời xưa hay dùng nhằm diễn đạt cách dùng từ đặc biệt của Sticky.
Trong khi bạn bè nói chuyện, Reynie để tâm trí lang thang hướng tới chiếc xe thùng phía trước, tới ngôi nhà ở Thành phố Đá - với cái sân trong phủ đầy dây leo thường xuân quen thuộc và những bức tường đá xám xịt - dĩ nhiên, cậu nhớ cả ngài Benedict nữa. Reynie có thể nhìn thấy ông ngay lúc này: mái tóc bạc trắng lúc nào cũng rối bù; đôi mắt sáng màu xanh lá đóng khung sau cặp kính dày; cái mũi khoằm khoằm to đùng; và bộ đồ vải thô màu xanh lá cây mà ông vẫn mặc hằng ngày. Với những ai không biết, ngài Benedict có lẽ trông khá giống một tên hề. Ý nghĩ đó khiến Reynie thấy bực vì ông không chỉ là một thiên tài mà còn vô cùng tốt bụng - và theo quan điểm của Reynie thì những người tốt rõ ràng là rất hiếm.
Bản thân ngài Benedict lại không đồng tình với Reynie về điều này. Reynie còn nhớ cuộc nói chuyện đó rất rõ. Nó diễn ra vài tháng sau khi chúng trở về từ điệp vụ bí mật tại Học viện, khi Reynie vẫn còn sống ở Thành phố Đá. Bất chấp vô số những nghĩa vụ dồn dập, ông vẫn sắp xếp một chuyến đến thăm Reynie, như ông vẫn làm hàng tuần. (Kate, vào thời gian này, đã về sống tại trang trại, còn Sticky đã trở về sống cùng bố mẹ ở một thành phố cách đó vài giờ đi xe. Trong bốn đứa, chỉ có Constance là được ngài Benedict nhận nuôi - sẽ ở lại Thành phố Đá. Còn cô Perumal sẽ chuyển cả gia đình tới một căn hộ lớn hơn ở vùng ngoại ô, nơi Reynie có thể có một phòng riêng và, không kém phần quan trọng, có một thư viện ở gần, trong khoảng cách đi bộ được.) Sau khi Reynie chuyển đi, những cuộc nói chuyện hàng tuần với ngài Benedict như thế này đã trở thành bất khả thi, bây giờ cậu nhớ lại chúng với niềm yêu mến - thậm chí là sùng kính.
Trong một dịp như thế, Reynie tìm thấy ngài Benedict đang ở một mình trong phòng làm việc đầy chật sách. Như thường lệ, ông chào đón cậu với sự nồng nhiệt và cả hai lại cùng nhau ngồi xuống sàn nhà. (Ngài Benedict mắc một chứng bệnh gọi là ngủ rũ, tức là sẽ ngủ bất chợt mỗi khi cảm xúc mãnh liệt. Trong những khoảng hiếm hoi khi ông không bị Số Hai hay Rhonda Kazembe đeo bám đến khó chịu, ông tự bảo vệ mình khỏi những cú ngã đau đớn bằng cách ở thật gần mặt đất.) Như bao lần trước đây, ngài Benedict ngay lập tức nhận thấy Reynie đang suy tư điều gì đó.
“Như ta đã nói trước đây,” ông tủm tỉm cười nói, “đây chẳng phải là kỳ công suy đoán gì cả, vì cháu, anh bạn nhỏ của ta, luôn luôn có thứ gì đó suy tư trong đầu. Nào hãy nói cho ta biết đó là gì đi.”
Reynie cân nhắc xem phải bắt đầu thế nào. Tất cả đều quá phức tạp, và cậu có thể thấy chẳng có điểm khởi đầu hay ho gì. Rồi cậu nhớ ra ngài Benedict dường như luôn bằng trực giác biết được ý cậu muốn nói gì, dù Reynie có tìm cách biểu đạt ra được hay không. Vậy nên cậu chỉ đơn giản nói, “bây giờ cháu thấy nhiều điều khác biệt, và nó... nó làm cháu khó chịu, cháu nghĩ thế.”
Ngài Benedict nhìn Reynie không chớp mắt, khẽ vuốt vuốt cái cằm lởm chởm cao đắp vì lỡ bị thương khi cạo râu. Ông thở hắt ra qua cái mũi khoằm khoằm. “Ý cháu là vì nhiệm vụ của cháu.”
Reynie gật đầu.
“Ý cháu muốn nói rằng,” ngài Benedict tiếp tục sau khi soi mình trong gương một lúc, “cháu bối rối trước sự độc ác đồi bại của những kẻ có năng lực. Ví dụ như em trai ta, cũng như các Điều hành viên của nó, bọn tay sai của nó, các học sinh khác ở Học viện…”
“Mọi người,” Reynie đáp.
“Mọi người ư?”
“Hoặc... hoặc hầu hết mọi người. Cháu chắc chắn không nghĩ về ngài như thế - hoặc bất cứ ai trong chúng ta, những người tập hợp lại vì ngài. Và dĩ nhiên còn có cô Perumal và mẹ cô nữa, cùng vài người khác. Nói chung, mặc dù... “ Reynie nhún vai. “Cháu nghĩ với việc Máy Thì Thầm không được trang bị đầy đủ - những thông điệp ngầm của ngài Curtain không thể ảnh hưởng đến trí não của mọi người nữa - à, cháu đã nghĩ mọi chuyện sẽ bắt đầu có vẻ khác đi. Tốt đẹp hơn. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra.”
“Cháu không phải đang nghi ngờ việc cháu đã làm được đấy chứ, ta hy vọng thế.”
Reynie lắc đầu. “Không, cháu biết chúng ta đã ngăn chặn để những điều khủng khiếp không xảy ra. Chỉ là cháu không mong đợi lại bắt đầu thấy những thứ đó - thấy những người đó - theo cách này.”
Ngài Benedict nhỏm người dậy, rồi suy nghĩ về điều đó kỹ hơn. “Một thói quen cũ,” ông nói. “Ta thỉnh thoảng lại cảm thấy thôi thúc muốn bước đi, cháu biết đấy, cái đó là nhẹ dạ. Nếu ta buông xuôi và dồn tâm trí mình vào giá sách kia, Số Hai sẽ không bao giờ để ta biết được kết cục của nó.”
Reynie cười không thành tiếng. Cậu biết rõ tính bảo bọc đáng sợ của Số Hai.
Ngài Benedict yên vị trở lại bàn làm việc của mình. “Điều cháu cảm thấy cũng là tự nhiên thôi, Reynie ạ. Cháu đã thấy nhiều thứ hơn những đứa trẻ khác - thậm chí cả hầu hết người lớn - trên thế giới này. Và ở chỗ hầu hết những người khác chỉ nhìn thấy các tấm gương thì cháu, bạn của ta ạ, lại thấy được những ô cửa sổ. Cháu đã thấy nó và bây giờ sẽ luôn trông thấy nó, dù cho những người khác không thể. Ta sẽ để dành cho cháu tầm nhìn đó ở độ tuổi trẻ như thế. Nhưng đó là món quà trời ban cho cháu, và hoàn toàn tùy thuộc vào cháu quyết định xem đó là điều tốt lành hay là một lời nguyền.”
“Xin lỗi, ngài Benedict, nhưng làm sao có thể là tốt lành khi biết được con người ta chẳng đáng tin cậy chút nào?”
Ngài Benedict nhìn Reynie ngờ vực. “Hơn cả câu trả lời cho điều đó, cho phép ta lưu ý vào cái giả thiết cháu đang đưa ra - giả thiết rằng hầu hết con người ta đều không đáng tin cậy. Cháu đã bao giờ cân nhắc khả năng này chưa, Reynie, rằng sự độc ác đơn giản là dễ nhận ra hơn lòng tốt? Sự độc ác, gian trá nổi bật hơn, như nó vốn thế phải không?”
Khi Reynie tỏ vẻ nghi ngờ, ngài Benedict gật đầu và nói, “ta sẽ không mong cháu thay đổi quan điểm quá nhanh. Cháu quen với việc nhận định đúng về mọi người - tất cả chúng ta đều biết cháu có trực giác kỳ diệu đó - và thật khó để cháu nghi ngờ về những kết luận do chính mình rút ra được. Nhưng cũng như ta làm với thói quen đi đi lại lại, Reynie ạ, cháu phải cảnh giác với các thói quen cũ có thể làm cháu lạc lối.” Ông khoanh hai tay và quan sát Reynie một cách sắc sảo. “Hãy để ta hỏi cháu nhé: Cháu đã bao giờ có giấc mơ nào mà trong đó cháu thấy một con rắn chết dưới chân mình rồi đột nhiên thấy những con rắn ở khắp mọi nơi và chúng đang bao vây cháu chưa?”
Reynie kinh ngạc. “Cháu đã có giấc mơ ấy. Đó là một cơn ác mộng.”
“Đúng thế. Và nó gây choáng váng cho ta giống như khi một người lần đầu tiên nhận ra mức độ của sự độc ác trên thế giới này. Cái viễn cảnh đó có thể trở thành nỗi ám ảnh hoàn toàn - và cứ thế, nó cũng là một cơn ác mộng, theo cách đó ta muốn nói nó không hẳn là một nhận định chuẩn mực về trạng thái của mọi vật. Với một số người có khả năng quan sát như cháu, Reynie ạ, những con mãng xà chết luôn đập vào mắt. Nhưng nếu cháu thấy những con mãng xà đó là tất cả những gì cháu thấy thì cháu có lẽ không phải đang nhìn nhận đủ nghiêm túc.”
Reynie đã suy đi nghĩ lại điều này - hiện vẫn đang ngẫm nghĩ về nó, thực tế không có tí tẹo nghi ngờ nào - nhưng rồi cậu lại buông lơi chủ đề này khi ngài Benedict và cậu chơi cờ vua. Reynie chưa bao giờ đánh bại được ông; tuy thế, trong vài trò chơi mà họ hay chơi, cậu đã học hỏi được rất nhiều từ ông. Thông thường, ván chơi của họ hay bị ngắt ngang bởi những cuộc thảo luận thật dài về các vấn đề khác, và lần này cũng không ngoại lệ. Ngài Benedict không biểu lộ dấu hiệu ngạc nhiên nào khi nửa giờ sau Reynie mới đáp lại bằng câu hỏi, “vậy ông cũng có cơn ác mộng về rắn ạ?”
“Ồ, tất nhiên,” ngài Benedict đáp, nhẹ nhàng đặt sang bên cạnh quân xe mà ông vừa ăn được. (Ông luôn coi trọng những quân cờ của Reynie, như thể ông coi việc ăn chúng như là một sự cần thiết.) “Đó là cơn ác mộng bình thường thôi, và ta đã mơ thấy nó nhiều lần rồi, cũng như rất nhiều những cơn ác mộng khác hiếm thấy hơn. Ta e đó là một phần trong tình trạng cơ thể của ta.”
“Ý ông là sao ạ?” Reynie biết chứng ngủ rũ của ngài Benedict khiến ông có xu hướng phải ngủ nhiều giấc ngắn không dự đoán trước được; ngoài ra, hiện giờ cậu nhận thấy ông hầu như không biết gì cả.
Trong một lúc ngài Benedict chẳng nói gì, chỉ đăm đăm nhìn ngón tay mình vẻ trầm ngâm suy tư như thể đang ngắm chúng lần đầu tiên trong đời vậy. Đối với Reynie dường như vì lý do nào đấy mà ông miễn cưỡng trả lời, nhưng ông cũng không muốn bác bỏ câu hỏi của Reynie. Sự thôi thúc sau đó đã chiến thắng, sau một lúc lâu ngài Benedict ngước mắt lên nói: “Đối với một số người như ta, Reynie ạ, thời gian buổi đêm có thể chỉ là việc cố gắng kéo dài ban ngày thôi. Tất nhiên, kết thúc công việc để đi ngủ luôn là cảm giác nhẹ nhõm - tạm dừng tranh đấu cả ngày như ta buộc phải làm - nhưng ta luôn bị bao vây bởi những cơn ác mộng, những giấc mơ kỳ lạ về chứng bại liệt không thể bước đi, và thậm chí cả những ảo giác khủng khiếp nữa.”
“Điều đó thật kinh khủng!” Reynie thốt lên. “Cháu không thể tưởng tượng được.”
“À,” ông Benedict tiếp tục, “ta đã quen với nó từ lâu rồi. Ta thậm chí còn làm bạn với Mụ Phù Thủy Già nữa kia.”
“Mụ Phù Thủy Già ư?”
“Một cái tên cổ xưa dành cho một trong những ảo giác thường gặp hơn bình thường. Thỉnh thoảng ta thức dậy thấy hình ảnh một bóng người gù có cái bướu trên lưng ở cuối giường của ta. Buồn thay, cái ảo giác này lại thường xuyên kết thúc bằng chứng bại liệt bất động.”
Reynie thất kinh. “Ý ông muốn nói là có một người lạ đứng lù lù cạnh giường - trong bóng tối - và ông không thể cử động nhúc nhích ạ?”
“Không thể hét lên nữa kia,” ngài Benedict nói. “Điều đó quả là đáng sợ.”
Reynie rùng mình tưởng tượng. “Cháu chắc sẽ sợ đến mất trí mất.”
“Đó là phản ứng thông thường nhất mà,” ngài Benedict cười nói. “Mà ta cũng thừa nhận là chỉ nói chơi thôi, chuyện ta đã làm bạn với mụ ta ấy. Có thể nói ta đã hồi phục nhanh chóng hơn ngày trước trong những cuộc đối đầu như thế. Dù sao đi nữa, những ảo giác đó và chứng bại liệt kia hiếm khi kéo dài lâu hơn một phút.”
Reynie nghĩ phút giây đó phải kéo dài bất tận thì có. Rồi cậu như nghĩ ra điều gì đó. “Thế còn ngài Curtain thì sao ạ? Ông có nghĩ điều đó cũng xảy ra với ông ta không ạ? Ông có nghĩ đó có thể chính là lý do vì sao ông ta bị ám ảnh với việc điều khiển, kiểm soát mọi thứ không?”
Ngài Benedict vuốt vuốt mũi. “Rất sắc sảo, Reynie. Chính ta cũng thường băn khoăn nghĩ về điều đó. Ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng những hành hạ ban đêm mà em trai ta phải chịu đựng và sự tranh đấu vật lộn hằng ngày đã khiến nó có ám ảnh đó. Dù từ lâu ta đã quen với những câu thần chú bất lực của mình nhưng cũng phải mất nhiều năm ta mới có thể thôi không cảm thấy xấu hổ vì chúng. Rõ ràng thằng em của ta đã chọn một con đường khác hẳn và chẳng đạt được giải pháp nào cả.”
Đây là một lời câu nói giảm nhẹ đi thôi. Reynie nhớ lại rõ ràng cùng với cảm giác kinh hãi về hình ảnh đôi gọng kính bạc kỳ quái của ngài Curtain và cái xe lăn quen thuộc đầy uy quyền của lão ấy nữa - thứ đạo cụ mà ông ta dùng để che giấu đi tình trạng cơ thể của mình. Người đàn ông đó có thể trông giống y hệt như ngài Benedict, và có lẽ cũng sở hữu một chỉ số thông minh như thế, nhưng cách tiếp cận thế giới của ông ta lại hoàn toàn khác biệt.
Trong một phút, Reynie bị cuốn vào ký ức khó chịu về những lần đối mặt với ngài Curtain. (Ký ức đó khó chịu không chỉ vì sự nguy hiểm mà cậu gặp phải, mà còn vì bản thân Reynie, trong một khoảnh khắc kinh khủng, đã từng nghi ngờ không biết cậu giống ai hơn.) Thế nhưng, tạ ơn trời đất, cậu nhanh chóng thoát ra khỏi những phản ứng bất thường đó nhờ một tiếng khịt mũi khe khẽ. Đầu ngài Benedict đang gục xuống đằng trước, hai bàn tay giần giật ở bên người, ông rõ ràng lại rơi vào một giấc ngủ rũ bên bàn cờ. Reynie có cảm giác thôi thúc muốn lẻn ra ngoài và để yên cho ông ngủ, nhưng ngài Benedict đã nhắc đi nhắc lại chỉ thị là Reynie phải đánh thức ông dậy khi những cơn ngủ rũ như thế xảy đến. Hoặc ít nhất cũng cố gắng đánh thức ông dậy cho dù chuyện đó thường xuyên không có khả năng.
“Ngài Benedict!” Reynie gọi. “Ngài Benedict!”
Ngài Benedict giật mình một cái, sau đó ngáp dài, rồi luồn hai bàn tay qua mái tóc rối bù của mình và nhìn Reynie vẻ biết lỗi. “Ta hy vọng là cháu không phải đợi quá lâu.”
“Không hề dù chỉ một phút,” Reynie đáp.
Ông thở dài. “Thằng em ta đã gây ảnh hưởng đấy, ta e là thế, cho dù vắng mặt đi nữa. Cứ nghĩ đến nó là ta thường thấy rầu lòng…”
Reynie nghĩ là cậu hiểu điều này - chính những ý nghĩ về ngài Curtain của bản thân cậu cũng chỉ toàn đem đến buồn phiền. Nhưng nhìn nét mặt của ngài Benedict, Reynie nhận ra đó không phải sự giận dữ hay sợ hãi, thậm chí là sự tổn thương khiến ông như vậy. Nó chính là nỗi buồn.
“Nào, bây giờ,” ngài Benedict nói cùng với cái phác tay ra hiệu về phía bàn cờ, “ta không muốn dồn cháu, nhưng ta tin là nó bị chiếu tướng ở nước thứ sáu. Đồng ý không?”
Reynie chuyển sự chú ý trở lại với ván cờ, nhưng mối bận tâm đã phủ bóng mây lên suy nghĩ của cậu. Rõ ràng ngài Benedict muốn được ở một mình. Vì vậy vừa nhấc chân nhỏm lên cậu vừa nói, “lần sau cháu sẽ thể hiện tốt hơn cho ngài thấy.”
“Ta rất mong chờ điều đó,” ông nói, cũng đứng lên. Ông tặng Reynie một cái siết vai trìu mến khi họ đi ra cửa. “Cho tới lúc đó, anh bạn của ta, chúc cháu có những giấc mơ vui vẻ.”
***
Reynie đang có những giấc mơ êm ái đúng lúc Kate kéo mạnh đánh thức cậu dậy. Cậu chớp chớp mắt nhìn quanh quất, thở phào vì những gì diễn ra hóa ra chỉ là mơ. Cậu đang ở bên các bạn mình và qua cửa sổ xe cậu trông thấy những tòa nhà cao tầng của Thành phố Đá ở phía trước, điều đó có nghĩa là họ sắp được đoàn tụ với ngài Benedict và những người khác rồi. Cậu ngái ngủ cười với Kate. “Tớ đoán mình vừa gà gật xong.”
“Mệt nhoài thì đúng hơn,” Kate nói. “Và cậu không phải là người duy nhất đâu. Sticky im tịt ngay giữa bài diễn văn về sự phong phú đa dạng của hoa phong lan. Tớ nghĩ cậu ấy tự làm cho bản thân chán ngắt đến mức ngủ gục luôn.”
Ngồi ở phía bên kia cạnh cô, Sticky chỉ tủm tỉm cười. Lúc này cậu chàng đã tỉnh và đang vui vẻ lau chùi cặp kính dày cộp của mình, tâm trạng quá tốt nên chẳng nỡ cáu giận. Reynie thấy phần da đầu cậu hơi nhăn lại ở chỗ dựa vào vai Kate lúc ngủ.
Vào đến Thành phố Đá, họ lái xe đi qua vài điểm mốc quen thuộc với Reynie. Có Trại tế bần nơi Reynie đã sống mãi cho tới năm ngoái; có công viên nơi cậu và cô Perumal từng đi dạo; giờ đây khi họ đi vào khu vực buôn bán sầm uất, tấp nập gần cầu cảng, Reynie có thể trông thấy tòa nhà Thầy Tu. Chính tại đó cậu đã gặp Sticky và Kate, cũng giống Reynie bọn họ đến để tham gia bài kiểm tra của ngài Benedict.
“Nghĩ mà lấy làm lạ,” Kate cất tiếng, gần như tự nói với mình. Cô đang nhìn chằm chằm vào tòa nhà Thầy Tu với ánh mắt băn khoăn. Khi cô gặp bố Milligan ở đó, cô đã nghĩ đó là lần đầu tiên, không ai trong bọn họ biết sự thật về mối quan hệ máu mủ của hai người.
“Các cậu có thể tin được không?” Sticky nói khi cô Perumal rẽ xe lên con phố dẫn tới nhà ngài Benedict. “Một năm trước, chúng mình thậm chí còn chưa gặp ngài Benedict. Chúng mình không có ý niệm gì về việc đó cả! Các cậu có tưởng tượng được…”
Reynie ngắt ngang lời cậu bạn. “Có chuyện gì thế, Amma?”
Cô Perumal đang nhìn chằm chằm vào thứ gì đó, lông mày nhíu lại vẻ lo lắng. Lũ trẻ nhướn người trên ghế ngồi đã thắt dây an toàn, cố nhìn về phía trước. Cô Perumal đỗ chiếc xe thùng vào lề đường, đến khi đó bọn chúng cũng thấy cái cô vừa thấy: ba sĩ quan cảnh sát đứng dưới tán cây du trong sân nhà ngài Benedict. Họ đang trò chuyện với một đám nhân viên chính phủ (bọn trẻ nhận ra những nhân viên này là người đã thẩm vấn chúng sau điệp vụ lần trước), và nét mặt bọn họ rất nghiêm trọng.
“Có chuyện gì đó đã xảy ra,” cô Perumal nói. “Các con đợi ở đây...”
Nhưng bọn trẻ đang chui ra khỏi xe mất rồi. Với Kate dẫn đầu, bọn chúng xông tới cánh cổng sắt dẫn vào sân trong nhà. Cả bọn bắt gặp một người đàn ông lạnh lùng lạ hoắc giơ tay ngăn lại. Ông ta người nhỏ con - không cao hơn Kate mấy - nhưng nét mặt khó chịu của ông ta và giọng nói lạnh lùng bực tức thì cho thấy một bầu không khí đe dọa thấy rõ.
“Các cô cậu nghĩ đang đi đâu thế hả?” ông ta hoạnh họe. “Các cô cậu là ai?”
“Chúng cháu là bạn của ngài Benedict,” Kate nói.
Người đàn ông nheo mắt. “Nhóc con nói sao? Bạn bè á?”
“Ôi, trời ơi!” một tiếng hét vọng ra từ phía ngôi nhà. Lũ trẻ liền phóng mắt nhìn qua người đàn ông và thấy đứng trên lối ra vào cửa trước, một người phụ nữ trẻ trung đáng yêu với làn da đen như than và mái tóc tết bím. Dĩ nhiên, đó là Rhonda Kazembe, trong khi hối hả chạy xuống mấy bậc thềm, cô dường như đã mất hết tinh thần khi trông thấy chúng. “Các em đến rồi à? Các em không nhận được điện báo của chị sao?”
Kate cố chen qua người đàn ông, nhưng ông ta thô bạo tóm lấy vai cô bé và kéo lại. “Bọn trẻ này là ai?” Ông ta hỏi Rhonda.
“Ổn cả, ông Bane, chúng đều là bạn. Thực ra, cô bé ông đang tóm chặt một cách quá mức thô bạo này là con gái của Milligan đấy.”
Người đàn ông giật mình thả Kate ra (còn cô bé thì bằng mọi giá đang cố vùng ra), Rhonda ra hiệu về phía các nhân viên chính phủ. “Mọi người ở đây ngoại trừ ông đều biết bọn trẻ này,” cô nói. “Ông có thể tùy thích kiểm tra thông tin với cấp trên của ông.”
Trong khi ông Bane oai vệ bỏ đi để thực hiện việc đó, Rhonda mở cánh cổng và ôm tất cả bọn cùng một lúc. “Các em lẽ ra không nên đến, nhưng giờ các em đã đến rồi, ít nhất chị có thể thôi lo lắng cho các em.”
“Đã có chuyện gì xảy ra thế, Rhonda?” Reynie hỏi.
Trước khi Rhonda kịp trả lời, cô Perumal và mẹ cô đã đi đến nơi, theo sau là gia đình Washington. Rhonda chào hỏi họ với vẻ nhẹ nhõm thấy rõ. “Vào trong đi,” cô nghiêm nghị nói. “Vào đi rồi tôi sẽ kể cho các vị mọi chuyện.”
“Kể cho bọn em mọi chuyện về cái gì cơ ạ?” Kate khăng khăng hỏi.
“Ngài Benedict và Số Hai,” Rhonda đáp, hai mắt cô đột nhiên rưng rưng nước mắt. “Họ đã bị bắt đi.”
Lũ trẻ giật mình trước tin sốc của cô. Bắt đi ư?
“Nhưng... nhưng ai?” Sticky bắt đầu nói.
Rhonda giận dữ chùi nước mắt. “Thế em nghĩ là ai chứ?”
Ngay lập tức tất cả bọn họ đều biết câu trả lời. Reynie nói ra thành tiếng. “Đó là lão Curtain đúng không?”
“Chị sẽ giải thích mọi chuyện khi chúng ta vào trong nhà. Chị không biết các em ở ngoài này có được an toàn không. Rốt cuộc có kẻ nào đó phải đến giao nó. Bọn chúng có thể chưa đến gần đây, nhưng ai biết được chúng dự định điều gì?”
“Giao cái gì ạ?” Reynie hỏi, nhưng Rhonda không nói gì thêm cho tới khi đã dẫn bọn họ vào bên trong.
Thế là đi tong viễn cảnh đoàn tụ hạnh phúc của Reynie bên trong căn nhà cổ của ngài Benedict. Tòa nhà ba tầng xây bằng đá được mở rộng ra thêm chẳng theo quy cách nào, nơi đây hoàn toàn quen thuộc, nhưng ý thức rằng ngài Benedict và Số Hai đang mất tích khiến nơi này mang một cảm giác xa lạ. Trong lúc ông Washington giúp vợ ông đi lên các bậc thềm trước nhà thì Rhonda bê chiếc xe lăn lên, Reynie và bạn cậu tiếp tục đưa mắt lo lắng nhìn quanh.
Qua cửa trước họ bước vào mê cung của ngài Benedict, nơi Rhonda và lũ trẻ đã biết rõ như lòng bàn tay. Mê cung này là phần cuối cùng trong số các bài kiểm tra của ngài Benedict, đồng thời là tuyến phòng vệ chống những kẻ xâm nhập ngôi nhà. Họ cùng nhau nhanh chóng di chuyển xuyên qua nhiều căn phòng giống hệt nhau, lên cầu thang ở phía bên kia nhà và cuối cùng đi vào phòng khách, ở đó sự xuất hiện của họ làm một nhóm nhân viên chính phủ khác ngạc nhiên, tất cả bọn họ đều quay về phía khung cửa với vẻ mặt e sợ.
“Ồ, hóa ra là cô,” một người phụ nữ có mái tóc bạch kim nói với Rhonda. “Xin lỗi, chúng tôi hơi hoảng.” Cô ta liếc mắt dò xét về phía lũ trẻ. “tôi thấy rồi đây là...?”
“Vâng, cô Argent,” Rhonda nói. “Tôi muốn cho chúng xem cái đó.”
Trao đổi những ánh mắt bất an, cô Argent và những nhân viên khác cuối cùng cũng bước sang một bên để bọn trẻ đến gần. Trên chiếc bàn ở trung tâm căn phòng có đặt một cái hộp màu nâu.
Rhonda ra dấu về phía cái hộp. “Chuyện gì xảy ra với ngài Benedict và Số Hai đều tùy thuộc vào cái đó,” cô dứt khoát nói. Giọng cô nghe như thể vẫn còn không thể tin được điều đó, quả tình, như đang nói với chính bản thân cô vậy. Cô thì thầm nhắc lại, “mọi thứ đều phụ thuộc vào cái đó.”
Bọn trẻ di chuyển đến gần hơn. Đó là một chiếc hộp bình thường, có kích thước khoảng bằng một cái thùng đựng hoa quả, có vài lỗ được đục trên hộp. Bọn trẻ cùng nhòm bên trong hộp qua những cái lỗ, trong đó tối đen, hồi hộp xem cái đó có thể là gì - thứ đựng trong chiếc hộp này sẽ quyết định số phận những người thân yêu của họ.
Đó là một con bồ câu xám. Chỉ thế thôi. Một con chim bồ câu.
Mục Lục