Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict T1 Chương 7

0 nhận xét

Tên Ebook: Bút chì, Tẩy và Người thắng cuộc

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 08/06/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Loan NguyễnNguyen Thi Thu HoaiHa Huyen, Ánh Ngân, Thanh Nguyen Anna Trinh, Con Đần
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 1 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 1 - Trenton Lee Stewart

Chương 7: Mật mã và quá khứ

Mất ba giây Kate Wetherall mới quen được với vai trò mới là một đặc vụ bí mật. Trong khi mấy đứa kia há hốc miệng, ngơ ngác và cấu véo nhau để chắc rằng chúng không nẳm mơ (thực ra là Constance đã cấu Sticky, sau đó cậu đã hét lên và cấu lại cô bạn của mình) - ngắn gọn là trong khi những đứa trẻ khác đang cố tiếp nhận tin này, Kate đã hỏi dồn dập ngài Benedict với các câu hỏi: Nhiệm vụ của họ là gì? Họ có cần mật danh không? Có được dùng mật danh hơi dài một chút không?
Ngài Benedict kiên nhẫn đợi đến tận khi bọn trẻ đã bình tĩnh lại. Ông giải thích về nhiệm vụ mới: làm thế nào để chúng được nhận vào Học viện trong ngày hôm sau, làm thế nào mà ông thảo được hết các loại giấy tờ cần thiết, và làm thế nào để (điều khiến Kate cảm thấy hơi thất vọng một chút) bọn trẻ sẽ không phải dùng mật danh.
“Cụ thể chúng cháu phải làm gì?” Sticky hỏi.
“Chính xác những điều mà chúng muốn các cháu làm, ngài Benedict nói. “Là học tập. Các cháu phải trở thành những học sinh xuất sắc. Một trong số ít những điều chúng ta biết về Học viện là nhiều đặc quyền nhất định chỉ dành cho các học sinh đứng đầu. Không nghi ngờ gì đó là những đứa trẻ mà Người Gửi dùng để gửi các thông điệp ẩn của hắn.”
“Cho nên ngài hy vọng chúng cháu sẽ có được thông tin bí mật nào đó,” Reynie nói.
“Đúng vậy. Làm thế nào mà các thông điệp của Người Gửi lại có thể có những ảnh hưởng sâu sắc đến vậy, kế hoạch cụ thể của hắn là gì - bất kỳ điều gì các cháu khám phá được đều có thể giúp chúng ta tìm ra cách tiêu diệt hắn.”
“Chỉ có vậy thôi à?” Sticky hỏi. “Ngài chỉ muốn chúng cháu làm học sinh?”
“Hơn thế chứ,” ngài Benedict nói, “các cháu không chỉ phải học những gì chúng dạy, mà còn phải cố gắng học những gì chúng không dạy. Từng chi tiết kỳ lạ, từng yếu tố đáng ngờ của Học viện - bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, các cháu phải báo lại cho ta biết. Các cháu không bao giờ ngờ được một lấn tò mò tốt có thể giúp chúng ta nắm được chìa khóa dẫn đến toàn bộ kế hoạch của Người Gửi. Mọi thứ các cháu phát hiện đều có thể sử dụng.”
Kate xoa xoa hai tay vào nhau. “Vậy ngài muốn chúng cháu lén lút giám sát, có thể đột nhập vào vài phòng làm việc, và...”
Ngài Benedict lắc đầu, “Hoàn toàn không.”
Kate ngừng xoa tay, “Không?”
“Các cháu phải tìm ra tất cả những gì có thể tìm,” ngài Benedict nói một cách nghiêm túc, “và các cháu phải báo lại cho ta, nhưng không được vướng vào các rủi ro không cần thiết. Nhiệm vụ của các cháu hiện nay đã đủ nguy hiểm rồi.”
Kate có vẻ cụt hứng, trong khi những đứa trẻ khác thì thở phào nhẹ nhõm.
“Từ nay về sau,” ngài Benedict tiếp tục, “chúng ta phải liên lạc thường xuyên - và bí mật. Do đó chúng ta sẽ dùng mật mã Morse.”
“Mật mã Morse!” Reynie ngạc nhiên hét lên.
“Không ai còn dùng mật mã Morse nữa,” Kate nói.
“Chính vì vậy nó mới hữu ích với chúng ta,” ngài Benedict nói. “Các cháu biết đấy, Học viện nằm trên đảo Nomansan, cách bến cảng Thành phố Đá nửa dặm. Từ một vị trí bí mật tại bờ biển trên đất liền, chúng ta sẽ liên tục theo dõi hòn đảo. Mỗi ngày và mỗi đêm, mỗi khoảnh khắc, các dấu diệu của các cháu sẽ được theo dõi. Các cháu có thể tùy ý chọn lựa thời điểm an toàn nhất. Chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.”
“Nhưng ngày mai chúng cháu phải đi trong khi thậm chí còn chưa biết mật mã Morse!” Constance phàn nàn.
“Thực ra là tớ biết,” Sticky nổi. “Tớ có thể dạy cậu, nếu cậu muốn.”
Constance lè lưỡi về phía Sticky.
“Các cháu đều học rất nhanh,” ngài Benedict nói. “Ta không lo về vấn đề đó. Và Constance này,” ông vừa nói vừa nhướn lông mày, “ta khuyên cháu nên trân trọng Sticky cùng với lời đề nghị của bạn ấy. Vì đây là điểm quan trọng mà ta muốn nhấn mạnh: Các cháu bây giờ là một đội. Các cháu có đồng ý hay không cũng không quan trọng, nhưng các cháu phải chăm sóc lẫn nhau, phải nương tựa vào nhau trong mọi tình huống. Ta không phóng đại khi nói rằng từng người trong các cháu đều quan trọng với thành công của đội, và thực tế, là với số phận của tất cả chúng ta. Các cháu phải ghi nhớ điều đó.”
Constance đảo đảo mắt. “Vâng, tốt thôi, George Washington, cậu có thể dạy tớ cái thứ mật mã Morse bốc mùi đó.”
“Gọi tớ là Sticky thôi. Sticky là được rồi. Cậu cũng có dùng họ của mình đâu.”
“Khi nào chúng ta bắt đầu, hả George Washington?”
Sticky cau có. “Đừng có gọi tớ như thế!”
Kate dựa vào Reynie thì thầm, “Tớ nghĩ chúng ra có thể gặp nhiều khó khăn hơn ngài Benedict nghĩ đấy.”
Bọn trẻ được yêu cầu học mật mã Morse ở phòng ăn, nhưng thời tiết buổi chiều quá đẹp, và cái sân nhỏ rợp bóng mát lại quá hấp dẫn, nên chúng xin được mang theo bữa ăn trưa và học ở bên ngoài. Ngài Benedict đồng ý với điều kiện không ai được liều lĩnh đi ra cổng, và Milligan phải luôn ở bên cạnh. Sticky và Constance ngồi trên chiếc ghế đá phía dưới bóng cây du, trong khi Kate và Reynie nằm dài trên mặt đất phủ đầy cây tường vi gần đó. Milligan, cải trang thành người làm vườn với mớ tóc màu xám lấp ló bên dưới một chiếc mũ rơm, với dáng vẻ tất bật và mệt mỏi, đang chăm sóc mấy bụi hoa hồng.
“Đó là loại mật mã đơn giản thôi,” Sticky giải thích. “Nó sử dụng các dấu chấm và dấu gạch ngang - các dấu ngắn và dài - để tượng trưng cho các chữ cái và chữ số.Ví dụ, chữ cái A được tạo bởi một đấu ngắn và một dấu dài, hay một dấu chấm và một dấu gạch ngang. Đây, để mình cho cậu xem.” Mượn đèn pin của Kate (Kate luôn mang theo cái đồ của mình đến mọi nơi), Sticky bật và tắt đèn pin rất nhanh. “Đó là tín hiệu ngắn - dấu chấm,” cậu bé nói. Sau đó cậu bé bật đèn pin trong đúng một giây. “Và đó là ký hiệu dài - dấu gạch ngang. Để cạnh nhau chúng tạo thành chữ A, và các chữ cái khác cũng gần giống như vậy. Chữ cái B là một gạch ngang và ba chấm, c là gạch, chấm, gạch, chấm và tương tự như thế với các chữ cái khác. Tất cả được viết ở đây,” Sticky nói ,chỉ vào cái bảng biểu mà ngài Benedict đưa cho chúng.
“Mình cùng tập nhé,” Sticky nói. “Constance, cậu dùng đèn pin và bảng này để đánh vần ra một thông điệp, và bọn tớ sẽ đoán xem cậu đang nói gì.”
Bàn tay của Constance nhỏ đến mức cô bé phải dùng cả hai tay để giữ đèn pin, nên Sticky phải cầm cái bảng hộ cô bạn bé nhỏ. Nheo mắt tập trung nhìn vào tờ giấy, Constance nháy nhanh đèn một lần, sau đó là hai lần dài hơn, rồi dừng lại.
“Chấm, gạch, gạch,” Sticky nói.
Kate nhìn vào tấm bảng và nói, “đó là chữ W, đúng không?”
Constance gật đầu và tiếp tục nháy đèn: bốn tín hiệu nhanh.
“Bốn chấm,” Reynie nói, “chữ H.”
Constance một lần nữa gật đầu, và theo cách này, bọn trẻ tiếp tục xử lý phần thông điệp còn lại. Quả đúng như ngài Benedict đã nhận xét, bọn trẻ đều học nhanh. Dù thế, ngoại trừ Sticky, cả lũ vẫn phải mất vài phút cho việc kiểm tra trên tấm bảng. Cuối cùng, Constance cũng nhấp nháy mật mã cho chữ cái cuối cùng của cô bé (gạch ngang, chấm - một chữ N), sau đó nhìn Sticky đầy hy vọng, cậu bé ngay lập tức bắt đầu phản ứng. Thông điệp là: Tại sao cậu lại bỏ chạy?
“Này, câu hỏi hay đấy,” Kate nói, “Sao cậu lại bỏ nhà đi, Sticky?”
“Dùng mật mã để trả lời thì mất thời gian lắm,” Sticky nói. “Hay tập luyện với thông điệp khác đi, cái nào ngắn thôi.”
“Bỏ qua cái mã đó đi và nói cho bọn mình biết”, Kate quả quyết. “Nếu chúng ta là một đội, chúng ta cần hiểu nhau rõ hơn, đúng không, Reynie?”
“Đúng đấy,” Reynie nói. “Tốt nhất là chúng ta đều phải hiểu về nhau.”
“Tớ củng nghĩ vậy,” Sticky nói vẻ khó chịu. “Nhưng đó không phải là một câu chuyện khôi hài để kể lể đâu.”
Đó đúng thật không phải là một câu chuyện khôi hài, và khi Sticky kể chuyện, khuôn mặt của bọn trẻ dài ra, cứ như cả lũ đều là phiên bản thu nhỏ của Milligan (người đang lặng lẽ lại gần nghe ngóng). Trong câu chuyện, hóa ra Sticky đã từng khá hài lòng với cuộc sống của mình - một đứa trẻ dễ chịu, con của một đôi vợ chồng dễ chịu - nhưng tình hình thay đổi khi khả năng đặc biệt của cậu bé được mọi người biết đến.
Chuyện này xảy ra vào một ngày tháng Tư, khi mẹ của cậu (bị viêm khớp đầu gối phải ngồi xe lăn, và chiếc xe lăn cần bôi thêm dầu trong thời tiết ẩm ướt) hét lớn, trong một lần kích động hiếm hoi, ‘tại sao trời lại mưa nhiều như vậy’. Khi Sticky giúp mẹ ngồi vào ghế, cậu bé bắt đầu giải thích cặn kẽ về hệ thống thời tiết và địa lý. Từng là một cậu bé luôn ngượng ngùng và ít nói, đầy là lần đầu tiên Sticky thể hiện kho kiến thức đáng nể của mình. Mẹ của cậu đã phải kiểm tra xem cậu có bị sốt hay không.
Tối hôm đó, mẹ nói chuyện này với bố cậu, và ông đã yêu cầu Sticky nhắc lại những gì cậu bé đã nói trước đó. Sticky nhắc lại, từng từ một. Bố cậu ngồi phịch xuống. Rồi lại đứng lên, đi vào phòng riêng, và quay trở ra với nhiều tập của một bộ bách khoa toàn thư lỗi thời. Đặt câu hỏi liên tiếp cho Sticky, nhà Washington khám phá ra rằng con trai họ, một cậu bé mới bảy tuổi đã có lượng kiến thức trong đầu nhiều hơn cả một giáo sư đại học, thậm chí hơn cả thế. Ngạc nhiên và tự hào, họ sung sướng hơn bao giờ hết, hơn cả việc tìm thấy kho báu vậy.
Và theo cái cách mà những người khác thường hay làm, ngay lập tức họ bắt đầu đưa cậu bé tham gia các cuộc thi nói, và Sticky giành chiến thắng một cách dễ dàng. Cậu bé mang về nhà nhiều giải thưởng đáng kể: một bộ bách khoa toàn thư mới thay thế cái đã lỗi thời, một bàn viết mới, tiền thưởng, trái phiếu tiết kiệm. Sticky càng thắng nhiều, cha mẹ cậu bé càng thích thú. Họ khuyến khích cậu bé học tập liên tục, đọc sách qua cả bữa ăn, thậm chí đọc đến tối, và không để cậu bé lãng phí chút thời gian nào với bạn bè. Áp lực phải thắng bắt đầu khiến cậu lạc hướng. Cha mẹ cậu bắt đầu tức giận khi cậu bé không trả lời các câu hỏi - điều này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn, và bản thân Sticky bắt đầu có xu hướng lẫn lộn khi căng thẳng. Họ la mắng Sticky và cho rằng cậu bé không quan tâm đến họ. Nếu Sticky quan tâm, họ nói cậu bé đáng lẽ phải cố gắng hơn để giành chiến thắng, vì chỉ có chiến thắng mới đem lại sự giàu có và hạnh phúc cho gia đình họ.
Sticky đã ngạc nhiên lắm. Trong trí nhớ, gia đình cậu chưa bao giờ giàu có nhưng cũng chưa bao giờ thiếu hạnh phúc. Và Sticky nhận ra một điều trái ngược - càng thắng nhiều, cậu càng cảm thấy không vui. Nhưng mà, dù đôi lúc cố tình bỏ qua vài câu hỏi mà cậu biết đáp án, Sticky vẫn thắng dễ dàng và tiếp tục được tham gia vào các cuộc thi lớn hơn với giải thưởng lớn hơn. Cho đến khi cha mẹ cậu hoàn toàn bị choáng ngợp bởi cái viễn cảnh giàu sang, thì Sticky đã hoàn toàn kiệt sức. Phàn nàn, hay thậm chí là van xin, Sticky vẫn không thể thuyết phục cha mẹ cho phép cậu dừng lại. Nếu muốn được giàu có và nổi tiếng, họ nói, cậu phải tiếp tục chiến thắng. Khi Sticky trả lời rằng cậu bé không quan tâm đến giàu có hay danh tiếng, họ không tin cậu và nói rằng cậu chỉ đang trở nên lười biếng.
Cuối cùng, Sticky quyết định thể hiện quan điểm của mình bằng cách giả vờ bỏ trốn. Cậu để lại một lời nhắn, sau đó trốn nhiều ngày trong một tủ quần áo. Cái tủ đó vốn đã được bịt kín nhưng Sticky vẫn tìm được cách để chui vào bên trong. Thỉnh thoảng cậu bé mạo hiểm ra ngoài lén lấy đồ ăn, dùng phòng tắm và theo dõi cha mẹ. Mới đầu, cậu bé cảm thấy hài lòng với những gì đang diễn ra: Bố mẹ cậu vô cùng đau khổ, kêu khóc tuyệt vọng về đứa con bị mất tích; họ tìm kiếm sự giúp đỡ từ mọi nơi. Nhưng sau đó điếu không hay đã xảy ra. Một người đàn ông giàu có, bản thân ông ta trước đây cũng từng là quán quân trong cuộc thi nói, biết được chuyện không may này và bỏ ra một số tiền lớn để giúp nhà Washington tìm con trai. Những lời ca tụng về sự hào phóng của ông ta nhanh chóng lan rộng, khích lệ các nhà hảo tâm khác những người không muốn bị qua mặt - gửi đến thậm chí còn nhiều tiền hơn; và chẳng bao lâu sau mọi người từ khắp nơi gửi quà cho nhà Washington, khiến họ trở nên giàu có. Ngạc nhiên và xấu hổ, Sticky nhận thấy cha mẹ bắt đầu ngày càng ít cố gắng tìm kiếm cậu, thay vào đó họ dành thời gian và sức lực vào việc tiêu pha một cách thích hợp đống của cải mà họ mới có. Cuối cùng, một ngày kia, cậu nghe trộm được cha mình nói một điều gì đó về việc “hiện giờ nên ngừng lại thôi” - nên ngừng lại và chấp nhận cậu mất tích, Sticky hiểu ra - cậu không thể tiếp tục chịu đựng sự phản bội của họ. Cậu bỏ đi thật xa.
“Tớ đã sống tự lập trong nhiều tuần,” Sticky dừng lại, tháo kính để lau nước mắt, “đến khi tớ thấy mẩu quảng cáo của ngài Benedict trên báo. Đó là câu chuyện của tớ. Các cậu đều biết phần còn lại. Bây giờ chúng ta tiếp tục bài tập chứ?”
Sau một hồi im lặng buồn bã, những đứa trẻ khác đồng ý, và Constance cầm đèn pin lên. Thông điệp của cô bé lần này nhanh hơn; nó chỉ có hai từ: Thật tiếc. Những người khác sửng sốt. Thậm chí cả Milligan, người đã quay trở lại với những khóm hồng và cố tỏ vẻ không thèm chú ý, cũng nhướng mày.
“Không sao,” Sticky nói.
“Chúng ta có phải là một lũ yếu đuối không đấy?” Kate nói. “Nếu tiếp tục như vậy, chúng ta sẽ phải bắt đầu gọi đó là mật mã hối hận (remorse code[3]).”
[3] Kate đã cố tình thêm “re” vào trước từ Morse (mật mã Morse) để tạo thành từ “remorse – hối hận”.
“Hối hận là gì?” Constance hỏi.
“Cảm thấy buồn về điều bạn làm,” Reynie nói.
“Ổ, cậu thấy buồn à, Geogre Washington?” Constance hỏi.
Sticky co rúm lại vì tức giận. “Bạn ấy đang nói về cậu đấy. Và đừng có gọi tớ như thế.”
“Tớ không gọi cậu là ‘thế’. Tớ gọi cậu là Geogre Washington. Hỏi những người khác xem. Họ nghe được đấy. Chắc chắn tớ không gọi cậu là ‘thế’, Geogre Washington ạ.”
Kate thở dài và lẩm bẩm, “Quá nhiều để hối hận.”
“Và còn Milligan thì sao?” Constance nói. “Sao chú ấy buồn thế?”
Mọi con mắt đổ dồn vào ngài vệ sĩ, người đã dừng chăm sóc những bông hồng và đang tra dầu vào các bản lề cửa. Trông Milligan như thể cần tra dầu cho chính mình - những cử động lờ đờ với cái lưng gù rõ ràng trông ông ấy già khú như cái vẻ nguỵ trang. Milligan thậm chí chẳng liếc lấy một ánh mắt về phía lũ trẻ. Thậm chí chú ấy còn chẳng buồn nghe câu hỏi, hoặc là đang giả vờ như không nghe thấy. Nhưng Constance không bỏ qua điều này.
“Milligan! Cho chúng cháu biết sao chú lúc nào cũng nhăn nhăn nhó nhó thế!”
“Chán thật đấy,” Sticky nói, “cậu có cần phải moi móc chuyện buồn của từng người như vậy không? Sao không để chú ấy yên?”
Cô bé không chịu nghe, và vẫn bướng bỉnh hỏi tiếp. Cuối cùng, Milligan cũng chịu đặt hộp dầu xuống và lê bước về phía bọn trẻ. “Được rồi, ông nói với giọng cam chịu. “Chú sẽ kể cho các cháu.”
Bọn trẻ bật ngồi thẳng dậy.
“Nhiều năm trước,” Milligan bắt đầu kể, “chú tỉnh dậy, thấy mắt bị bịt kín và đang ngồi trên một chiếc ghế kim loại cứng. Tay và chân bị còng lại với nhau, một cái kềm kim loại giữ chặt lấy đầu chú. Tỉnh dậy, chú nghe thấy giọng một người đàn ông, ‘Tên này cứng đầu thật, khó ghè vỡ’. Thực tế chú cảm thấy đầu mình như vỡ tan rồi ấy - chú đau đầu khủng khiếp, đói và kiệt sức, và không hiểu sao ngón tay và ngón chần cũng đang đau nhói. Tệ hơn nữa: Khi chú cố nhớ lại xem mình đã ở đầu, và làm thế nào lại ở đây, chú nhận ra rằng mình không thể.”
“Mất trí nhớ?” Reynie nói.
Milligan gật đầu. “Rõ ràng là chú đã phải nhận một cú chí mạng vào đầu. Chú chẳng thể nhớ được gì - không quá khứ, không mục đích, thậm chí cả một cái tên. Đến bây giờ, chú vẫn không thể nhớ được mình là ai.”
“Thế sao chú nói tên mình là Milligan?” Constance hỏi, gần như buộc tội, cứ như Milligan đã nói dối bọn trẻ vậy.
“Khi hồi phục lại ý thức, đó là cái tên đầu tiên bay vào tâm trí. Có lẽ nó là tên chú, nhưng chú lại không có cảm giác như vậy, nếu các cháu hiểu. Nó có vẻ như được gắn cho mình theo một cách nào đó, và quan trọng là, có thể nó đúng là tên của chú thật, nhưng chú e là mình sẽ không bao giờ biết được chính xác.”
“Rồi chuyện gì xảy ra tiếp theo ạ?” Kate hỏi.
“Rồi chú lại nghe thấy cũng giọng nói đó vang lên, ‘Đánh thức hắn lần nữa đi. Tao thấy mệt với hắn rồi.’ Rồi kẻ nào đó lắc lắc tay chú, nói với một giọng nhẹ nhàng rất khác lạ, ‘Dậy nào, bạn của tôi, dậy đi nào,’ nhưng không biết chú đã tỉnh dậy đủ lâu để nghe thấy tất cả những gì kẻ đó đã nói về chú chưa”.
“Chú giả vờ trở nên tỉnh táo, Milligan kể tiếp, ‘Cái gì? Tôi vừa ngủ à? Tôi ở đâu đây?’ Rồi người đó trả lời, ‘Bạn an toàn rồi; đó mới là điều quan trọng. Chúng tôi vừa cứu bạn khỏi cái chết trong gang tấc và chúng tôi ở đây để giúp bạn. Bây giờ, có thật là bạn không nhớ được chút gì không?”
“Tất nhiên là không, hình như chú cũng nói điều này với gã đó. Nhưng khi hắn có vẻ như đang chờ đợi câu trả lời và có ý lợi dụng điều này bằng cách này hay cách khác, chú nói, ‘Ngược lại. Tao nhớ hết mọi thứ một cách hoàn hảo’.”
“Gã đó hét lên, ‘Cái gì? Mày nói dối!”
“ Thật khó khăn’, chú nói. ‘Tao rất tiếc khi làm mày phải buồn bực như vậy”
“Sau đó giọng nói trở nên xảo quyệt, ‘Nếu mày nhớ rõ như vậy, nói cho tao biết vì sao mày ở đây đi.’ ”
“Tao tin rằng tao sẽ dành câu trả lời cho mày”, chú trả lời.
“Đồ hèn hạ! Mày đang nói dối chúng tao, mày là đồ bẩn thỉu... Gã đó hét lên, và bỗng nhiên chịu yên lặng một cách kỳ lạ, cứ như là có ai đó đã bịt miệng hắn vậy.”
“Một lúc sau chú nói, ‘Bẩn thỉu cái gì? Cho tao biết đi - cảm giác hồi hộp sắp giết chết tao rồi.”
“Giọng nói đó trở lại, đã bình tĩnh hơn nhiều. ‘Nó sẽ không hồi hộp đâu đúng không, hắn nói. ‘Nếu mày không mở miệng vào ngày mai, chúng tao sẽ tống cổ mày ra bến tàu.’”
“Thôi được, tao chắc là tao sẽ thích viễn cảnh đó hơn hơi thở của mày nhiều,” chú trả lời, ngay lúc đó hắn đánh mạnh vào mặt chú và ra lệnh đưa chú ra khỏi phòng.”
“Cú đánh đó ngược lại có tác dụng tốt với chú, vì nó làm khăn che mặt bị lỏng ra. Khi chú rời khỏi phòng thì khăn che mặt bắt đầu trượt xuống, và những kẻ bắt cóc đã không nhận ra điều này, còn chú nhìn được mọi thứ khá rõ. Hai người đàn ông trong bộ comple đang dẫn chú dọc theo một lối đi bằng đá. Chúng di chuyển từ từ vì mắt cá chân của chú bị trói. Tay chú bị trói ở trước ngực và đang nắm thứ gì đó. Chú kinh ngạc mở nắm tay của mình ra, các ngón tay đã bị cắn và sần sùi. (Điều này giải thích tại sao chúng đau như có thứ gì đó chích vào, và các ngón chân cũng đang đau nhức y như thế, nên chú nghĩ chắc là móng chân cũng đã bị cắn rời ra rồi.) Rồi chú phát hiện ra trong tay mình có một thiết bị nhỏ giống như một cái kẹp tóc xoắn. Chú kinh hãi khi nhận ra nó làm theo hình dạng ngón tay và ngón chân. Chắc hẳn chú đã tự làm tất cả những việc đó, nhưng lại chẳng nhớ gì cả.
“Tưởng tượng xem lúc đó chú đã kinh ngạc đến thế nào khi khám phá ra tác dụng của cái thiết bị nhỏ đó. Chú nhét vội nó vào trong chiếc khóa đang còng chặt tay và ngay khi đi đến chỗ cầu thang, chú nghe thấy tiếng lò xo của khóa - chú đã mở nó chưa đến một phút. Trước khi chúng kịp phát hiện việc này, chú quỳ xuống và còng mắt cá chân và cổ tay chúng lại với nhau, rồi đẩy xuống cầu thang.”
“Sau đó, việc trốn đi khá đơn giản. Chú chạy thục mạng trong đêm mưa qua một ngọn đồi cho đến khi tới một vách đá nhìn ra bến tàu. Mặt nước nhìn có vẻ nông khoảng chục mét, nhưng chú không còn lựa chọn nào khác, chú nhảy thẳng xuống dưới. Và thật khó khăn để bơi vào đất liền trong khi những kẻ bám theo bơi thuyền cố gắng bắt chú bằng lưới và móc cầu, hoặc đại loại thế. Nhưng chú đã chứng tỏ mình là một tay bơi cừ khôi, và những hòn đá ở trong kênh khá là đe dọa với mấy cái thuyền đó. Cuối cùng chú cũng trốn thoát.”
Toàn bộ câu chuyện được kể lại một cách nhẹ nhàng, không có chút kích động hay tâm trạng nào trong giọng kể của Milligan. Nhưng bọn trẻ nghệt mặt ra lắng nghe, và phải khó khăn lắm mới kiềm chế bản thân được. Khi Milligan kết thúc câu chuyện, chúng vỡ òa ra với hàng loạt câu hỏi: Làm thế nào chú đến được đây? Ban đầu chú làm gì ở đảo Nomansan? Đó là đảo Nomansan phải không? Và những kẻ trong bộ comple…
“Đúng, chúng cùng một bọn, những kẻ các cháu nhìn thấy trong mê cung. Chúng không dám chắc đã gặp chú ở đâu, nhưng chú chắc chắn nhận ra chúng. Và đúng thế, đó là đảo Nomansan - chính là Học viện - nơi mà chú đã thoát ra. Tại sao chú ở đây, chú không thể nói được, nhưng ngài Benedict tin rằng chú là đặc vụ bí mật, làm việc cho một cơ quan của chính phủ một thời gian dài cho tới khi bị lộ. Chú chẳng biết nói gì nữa.”
“Có thể ngài Benedict sẽ tìm ra,” Reynie nói.
“Chính niềm hy vọng đã dẫn chú đến với ngài Benedict,” Milligan thừa nhận. “Chú đã mất nhiều tháng để tìm thông tin về quá khứ của mình, nhưng không ai tin lời kể của chú, và không ai có câu trả lời. Cuối cùng, chú biết được một người cần phải gặp - không phải là một đặc vụ của chính phủ, mà là một người thông minh với những mục đích bí ẩn, một người dường như luôn biết về mọi thứ nhiều hơn những người khác. Đó, tất nhiên, là ngài Benedict. Mặc dù ông ấy giúp chú có được ý niệm về những gì đã xảy ra, và đổi lại ông ấy có được sự trung thành của chú, nhưng toàn bộ công việc bí mật và phức tạp đến mức từ lâu chú đã cho rằng sẽ không bao giờ tìm được gì về quá khứ của mình.”
“Khủng khiếp làm sao,” Reynie nói.
“Đúng vậy, quá tệ,” Sticky nói, mặc dù không hoàn toàn bị thuyết phục, nhưng lúc này cậu ước gì mình không thể nhớ về quá khứ, và những đau buồn mà nó mang lại.
“Này, liệu bệnh mất trí nhớ của chú có liên quan gì đến cách cải trang ngu ngốc của chú không?” Constance hỏi.
Milligan ấn chiếc mũ rơm trên đầu chặt hơn. “Cách cải trang ‘ngu ngốc’ hữu dụng với nhiều lý do, nhưng thật ra, Constance này, sẽ là không may nếu ai đó trong số kẻ thù trong quá khứ nhận ra chú, mà chú lại không thể nhận ra hắn. Tốt hơn hết là đừng bao giờ để bị nhận ra.”
“Thật sự không có chút hy vọng nào trí nhớ của chú sẽ trở lại sao?” Kate hỏi.
“Ồ, chú cho là có chút hy vọng mỏng manh nào đó. Ngài Benedict đã cố gắng thôi miên và thử một số phương pháp chữa trị khác cho chú, nhưng may mắn vẫn chưa đến. Tuy nhiên, ông ấy nói rằng có thể trong một sự kiện đặc biệt nào đó, hoặc sự xuất hiện của một đồ vật hoặc một người quan trọng trong quá khứ của chú, hoặc ai đó biết về nó, có thể phá vỡ cánh cửa và để ký ức của chú thoát ra. Chú e rằng, dù vậy nhưng chú không còn nhiều hy vọng nữa.”
“Nếu không phải vì hy vọng, chú tiếp tục sống vì điều gì?” Reynie hỏi, cậu có dự cảm xấu rằng có thể đến lúc nào đó, không còn xa lắm, khi mọi thứ cũng sẽ trở nên vô vọng với cậu.
“Trách nhiệm,” Milligan nói. “Không gì khác, chỉ có ý thức về trách nhiệm. Chú biết những Người Gửi đang tự do làm điều xấu. Chú thấy mình phải có trách nhiệm ngăn cản chúng. Hoặc ít nhất là, cố gắng làm điều đó.”
“Và chú nghĩ rằng chúng ta có thể?” Reynie hỏi. “Chú có nghĩ rằng chúng ta sẽ ngăn chặn được chúng không?”

Đáp lại, Milligan quay về với ca dầu của mình. Chú ấy cũng không liếc mắt lại về phía lũ trẻ lần nào nữa.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét