Tên Ebook: Sự trỗi dậy của Ác Mộng
Bộ Sách: Nữ Thần Báo Tử-Soul Screamers (Tập 4)Tác Giả: Rachel Vincent
Thể Loại: Best Seller, Kỳ Ảo, Tiểu Thuyết, Tình Cảm, Văn học phương Tây
Người dịch: Thanh Nga
Hiệu đính: Tuấn Đức
Nhà xuất bản: Trẻ
Đơn vị phát hành: Hoa Học Trò
Kích thước: 15x24 cm
Số trang: 320
Trọng lượng: 400g
Hình thức bìa: Mềm
Giá bìa: 55.000VND
Chủ dự án: Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn sách: Rùa Ngu Ngơ
Type: Annabelle Tran, Thu Julie, Hatbodao Dethuong, Ngo Thuy, Dung Nguyen, Phạm Vân, Misa Nguyen
Beta: Ha Huyen
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Nữ Thần Báo Tử tập 4 |
Chương 13
SAU KHI VỀ ĐẾN NHÀ, tôi rón rén kiểm tra xem bố đã ngủ say chưa, rồi nhẹ nhàng đi vào trong bếp lấy hộp sô-cô-la bạc hà trong tủ lạnh. Anh Tod, Alec và tôi mỗi đứa một thìa, vừa xúc kem ăn vừa giúp tôi lên danh sách tất cả những loài không-phải-con-người có khả năng giết chết một người trong giấc ngủ.
Cả hai đều đồng quan điểm là kẻ giết người chắc chắn phải là một loài chuyên sống ký sinh vào cảm xúc của các nạn nhân. Nhưng trong khi anh Tod cứ khăng khăng nói rằng về lý thuyết thì bất kỳ loài ký sinh nào cũng có thể hút năng lượng của nạn nhân trong khi đang ngủ - đó có thể là quỷ incubus trong hình hài một nam nhân chuyên quyến rũ phụ nữ trong giấc mơ hoặc quỷ succubus mang dáng vẻ của một cô gái xinh đẹp chuyên quyến rũ đàn ông trong giấc mơ, hay một con quỷ chuyên trích hút từ các cơn giận dữ, hoặc một con quỷ của sự ghen tuông – thì Alec lại một mực cho rằng quỷ mara vẫn là tình nghi số một bởi vì loài quỷ ác mộng ấy chỉ có thể trích hút năng lượng khi nạn nhân đang ngủ mà thôi. Anh Tod tỏ thái độ khó chịu ra mặt với cái kết luận của Alec nhưng cũng không phản đối được gì.
Lúc anh Tod phải về đi làm thì tôi cũng rút về phòng cùng với cái máy tính và một lát pizza còn thừa ban nãy. Mong là không còn tôi ngồi lải nhải bên cạnh hỏi han về bầy quỷ man rợ kia, Alec sẽ chợp mắt được một chút.
Vừa gặm pizza vừa nhấp soda mát lạnh, tôi vừa mò mẫm trên mạng tìm xem có gì liên quan đến Sabine Campbell không. Nhưng trong số tất cả những Sabine Campbell mà tôi tìm thấy trên mạng, chẳng có ai ở độ tuổi cần tìm cả. Chị ta không hề đăng ký vào bất kỳ trang mạng xã hội nào mà tôi biết - ít nhất là dưới cái tên thật - kể cả trên trang web của các trường chị ta từng theo học. Chứng tỏ chị ta chẳng tham gia vào bất kỳ môn thể thao hay câu lạc bộ nào, cũng chẳng giữ vai trò gì quan trọng khi còn học ở trường cũ.
Cũng chẳng có gì bất ngờ lắm.
Và hiển nhiên, hồ sơ phạm tội của trẻ vị thành niên là thứ không thể tìm kiếm trên mạng rồi bởi vì tôi tìm mãi, tìm mãi vẫn chẳng thấy có gì liên quan đến quá khứ phạm tội của chị ta.
Cuối cùng, đến tầm hai rưỡi sáng tôi chợt nảy ra một ý tưởng khá thông minh. Đấy là tìm trường cũ của anh Nash, nơi mà anh ấy đã gặp Sabine.
Tên của chị ta không hề thấy xuất hiện trong các kết quả tìm kiếm, nhưng khi thử gõ thêm hai chữ bị bắt thì tôi đã tìm được một vài thông tin khá giá trị.
Hai năm trước, khoảng ba tháng sau khi anh Nash chuyển tới trường trung học Eastlake, một nữ sinh 15 tuổi ở trường cũ của anh ấy đã bị bắt vì tội tấn công giáo viên. Sau đó hai tháng, lại có một nữ sinh 15 tuổi bị đuổi học vì tội mang rượu đến trường. Cả hai tin đều có nguồn từ cùng một trang báo mạng nhưng không nói rõ liệu hai người có phải là một hay không, nhưng tôi nghĩ là đúng. Ngoài hai vụ đó ra, tất cả những vụ lộn xộn khác ở trường cũ của anh Nash đều gây ra bởi đám con trai hết.
Kết luận hợp lý hơn cả chính là Sabine hoặc đã bị đuổi học hoặc đã chuyển đi chỗ khác.
Nhưng chị ta đã ở đâu trong khoảng thời gian giữa khi học tại ngôi trường cũ của anh Nash và ngôi trường Eastlake hiện tại? Tôi nhớ là mình đã từng nghe thấy cái tên trường gần đây nhất của chị ta, bởi vì Sabine đã kể cho Emma nghe hôm hai người gặp nhau lần đầu ở lớp tiếng Anh.
Valley gì đấy hoặc cái gì đấy Valley thì phải. Là Valleyview? Không. Hay là Oak Valley? Cũng không phải, nhưng nghe có vẻ gần giống hơn. Đại loại là cái gì đó liên quan đến tự nhiên.
Thế rồi tự nhiên tôi chợt nhớ ra: là Valley Cove. Sabine chuyển đến Eastlake từ trường Trung học Valley Cove. Tôi vẫn nhớ Emma còn kể là Sabine đã pha trò về cái tên ấy mà.
Sau một hồi mò mẫm tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng “khai quật” được một bài báo cũ đăng trên tờ báo địa phương của thị trấn Valley Cove về một nữ sinh trung học năm ba bị đuổi học vì tội phá hoại tài sản của nhà trường. Cô nàng bị bắt quả tang khi đang sơn xịt “những hình ảnh và từ ngữ thô tục” lên tường của một tòa nhà trong trường, vào lúc nửa đêm.
Chuẩn rồi, nghe chẳng khác nào Sabine của chúng ta.
Tới tận lúc tắt máy tính lúc ba giờ sáng, tôi vẫn tuyệt đối tin rằng Sabine là một ả tội phạm ngang bướng, đáng ghét, không hề biết hối cải. Nhưng lại chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ chị ta từng phạm tội giết người cả.
TÔI NGỒI BẬT DẬY TRÊN GIƯỜNG và một cảm giác bất an cứ như đàn nhện tí hon bò lồm cồm khắp người tôi. Tôi chớp mắt cho qua cơn buồn ngủ và căn phòng dần hiện ra trước mắt tôi, tối đen như mực, ngoại trừ một chút ánh sáng lẻ loi từ ánh đèn đường bên ngoài cửa sổ. Có gì đấy không ổn nhưng tôi lại không biết đó là gì. Hay nói đúng hơn là chưa biết. Nhưng tôi đã bắt đầu cảm thấy rợn hết tóc gáy.
Tôi ngửi thấy nó, trước cả khi nghe thấy, và đàn nhện bên dưới da thịt tôi bỗng trở nên điên cuồng và hoảng loạn. Tôi biết cái mùi ấy. Một lần, có một con sóc bị kẹt trong cái thùng rác cũ dùng để chất lá khô của nhà tôi, và khi bố tôi phát hiện ra, nó có mùi y chang cái mùi này. Mùi của sự mục nát. Mùi của cái chết vẫn còn ấm nguyên.
Tim tôi đập thình thịch và tôi vội nín thở. Tôi không muốn ngửi cái mùi hôi thối tanh tưởi ấy, càng không muốn cái vị của nó vương lại nơi đầu lưỡi nên đã mím chặt môi lại.
Kế đó là âm thanh của những tiếng bước chân ngắt quãng, xen kẽ bởi tiếng đế giày trượt kin kít trên sàn. Các bước chân mới đầu còn nhẹ nhàng, càng về sau càng to hơn. Gần hơn. Hơi thở của tôi ngày một gấp gáp hơn, và tôi vội lùi sát ra sau, thành giường, như để nới rộng khoảng cách giữa mình với cái thứ khủng khiếp đang lướt về phía mình.
Tôi nên bỏ chạy. Nhưng tôi lại không thể nhúc nhích. Toàn thân tôi như bị đóng băng, sự tò mò và nỗi sợ hãi đang giằng xé bên trong cơ thể tôi khi cánh cửa phòng tôi vang lên một tiếng cót két, rồi từ từ mở ra.
Cửa phòng tôi sao lại kêu cót két được nhỉ. Trước giờ nó chưa bao giờ bị như vậy. Thế mà giờ nó lại kêu ken két, và một bàn tay màu xám đang nắm vào núm cửa.
Tôi thở hổn hển, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi muốn thét lên thật to. Lâu nay tiếng thét vẫn là thế mạnh của tôi, vậy mà hôm nay dù cố gắng thế nào cũng chẳng thấy âm thanh nào thoát ra. Giọng nói của tôi cũng đang bị liệt như những bộ phận khác của cơ thể. Tôi chỉ có thể chờ đợi trong nỗi khiếp sợ tột cùng.
Từng giọt mồ hôi chảy dài trên sống lưng tôi. Thậm chí tôi cảm nhận được những giọt đang rơi trên trán và khuỷu tay mình. Bàn tay xám xịt kia bắt đầu thò vào bên trong phòng, kế đến là cổ tay, cánh tay, và bả vai dần hiện ra. Và trước khi tôi kịp hoàn hồn thì đã thấy bà đứng ở đấy. Trước cửa phòng tôi. Đang nhìn tôi chằm chằm bằng đôi mắt trắng đục không có sức sống.
Tôi không thể thở nổi nữa, mỗi hơi thở giờ đây đều có mùi giống như bà. Mùi của sự thối rữa. Mùi của những thứ đáng ra đang phải phân hủy và nằm sâu dưới lòng đất, chứ không phải đang chảy tong tỏng trên sàn nhà tôi như thế này.
Nhưng điều đáng sợ nhất chính là bề ngoài trông bà giống như bị mù nhưng tôi biết bà nhìn thấy tôi. Đôi môi nứt nẻ nhợt nhạt tưởng chừng như không thể cử động được, đột nhiên lại mở hé ra. Và cái cổ họng mặc dù đã bị mục nát theo thời gian nhưng lấp ló qua mấy lỗ hổng trên da tôi thấy sợi dây thanh quản vẫn còn nguyên và nói được bình thường. Và tôi vẫn nhận ra giọng nói ấy.
Làm sao tôi có thể quên được, mặc dù không còn nghe lại giọng nói đó kể từ năm 3 tuổi. Từ cái đêm bà qua đời. Từ cái đêm tôi chết đi và bà thế chỗ cho tôi.
Cái xác chết biết đi, đang mục rữa và bốc mùi kia chính là mẹ tôi.
“Ta muốn lấy lại nó.” - Mới đầu giọng bà nghe chỉ như một tiếng thì thào, có lẽ đã 13 năm rồi bà chưa sử dụng đến nó. “Con đã lãng phí nó và giờ ta muốn lấy lại nó.”
“Mẹ à?” Tôi không hề biết mình đã lấy lại được giọng cho tới khi nghe thấy giọng nói của mình cất lên. Ôi, tôi đã luôn ước ao được gặp lại và nói chuyện với mẹ, dù chỉ là một lần. Nhưng không phải trong hoàn cảnh khủng khiếp như thế này. Mặc dù không muốn tin nhưng tôi không thể phủ nhận những gì đang diễn ra trước mắt mình. Khi mà mùi hôi thối của xác chết đang nồng nặc khắp phòng, làm ô nhiễm hai lá phổi của tôi. Khi mà đôi tay của mẹ đang vươn ra, mỗi lúc một gần...
“Con đã lãng phí nó. Con không phải đang sống, mà là đang chết từ từ.” - Rõ ràng mỗi một từ, một chữ thốt ra là cả một sự nỗ lực lớn đối với mẹ nhưng bà vẫn kiên trì tiếp tục - “Vì thế hãy trả lại nó cho ta.” Mẹ tập tễnh bước lại gần tôi, trong khi đáng ra đôi chân ấy phải ngừng hoạt động từ lâu rồi mới phải. Và sau 13 năm nằm dưới mồ, đáng ra thân xác ấy giờ chỉ còn là bộ xương mới đúng.
Toàn thân tôi run lẩy bẩy, nỗi sợ hãi chính là thứ duy nhất giữ cho trái tim tôi còn đập. Tôi rất muốn bỏ chạy, và lần này tôi đã có thể chạy, nếu muốn. Nhưng tôi lại không nỡ chạy trốn khỏi mẹ. Dù bà có chết, có bốc mùi, có đáng sợ đến thế nào thì vẫn là mẹ tôi.
“Mẹ ơi...” Tôi gọi mẹ thêm một lần nữa và nín thở chờ đợi. Chờ mẹ nhớ ra tôi, giống như tôi vẫn nhớ ra mẹ. Nhưng đôi mắt bà hoàn toàn vô cảm, không hề có chút biểu hiện nào của tình yêu hay tình mẫu tử. Còn giọng nói thì lạnh lùng và cay nghiệt đến kinh sợ.
“Con chỉ biết than vãn khóc lóc. Con không chịu lắng nghe người khác. Con chưa thực sự sống hết mình. Con không dám mạo hiểm, cũng chẳng học hỏi được cái gì sau ngần ấy năm sống trên đời. Vì thế con sẽ chẳng bao giờ có thể lớn lên được.”
Nỗi sợ hãi cháy bùng lên trong tôi, như muốn thiêu sống tôi từ bên trong. Từng lời nói của mẹ như những vết dao cứa vào da thịt tôi. Điều duy nhất khiến tôi vẫn giữ được tỉnh táo cho tới bây giờ chính là sự phủ nhận tất cả với những gì đang diễn ra. Nếu ngày đó mẹ không chết thay tôi, có lẽ giờ người đang đứng ở kia chính là tôi. Tôi yêu mẹ, bởi mẹ là mẹ của tôi - người đã mang lại cho tôi sự sống, không những một mà là hai lần.
“Mẹ ơi?” Lần này là một câu hỏi, bởi mẹ tôi chưa bao giờ nói với tôi bằng thái độ như vậy. Mẹ tôi vốn là một người ân cần, tốt bụng và tình cảm. Tôi không nhớ nhiều lắm về mẹ nhưng ít nhất tôi vẫn nhớ điều đó.
“Ít ra nếu con có gì đó xuất chúng hơn người thì ta còn thấy chấp nhận được.” - Mẹ bước thêm một bước vụng về phía tôi và nước mắt tôi bắt đầu rơi lã chã trên má - “Ví dụ một phẩm chất phi thường, chứng tỏ sự hy sinh của ta là xứng đáng.” - Mẹ lại tiến thêm một bước nữa. Nước mắt đã thấm đẫm hai má tôi nhưng mẹ vẫn không dừng lại, vẫn tiếp tục làm tôi đau đớn tôi bằng những lời nói đầy cay nghiệt - “Vẻ đẹp. Trí tuệ. Tài năng. Con chẳng có gì hết. Con quá tầm thường, giống như bao người khác. Con không hề tỏa sáng như ta đã từng tỏa sáng.”
Thêm một bước nữa và giờ thì mẹ đã tiến tới sát chân giường tôi. Mẹ nhướn người về phía trước, đặt cả hai tay lên chăn. Các ngón tay của mẹ tách ra như cái vỏ bọc xúc xích bị ép lại bên dưới sức nặng của cơ thể. Quá khiếp sợ, tôi hít vào nhanh tới nỗi xém chút nữa thì mắc nghẹn với chính hơi thở của mình.
“Ta đã từng là ánh sáng của cuộc đời cha con, soi đường chỉ lối cho ông ta trong mỗi bước đi. Nhưng con lại không hề tỏa sáng. Bố đã phải bỏ con lại cho bác nuôi bởi vì bố không thể chịu đựng nổi việc phải sống cùng với con. Bởi vì bố biết điều ta biết. Điều mà chính con cũng biết. Đó là... con không hề xứng đáng, Kaylee ạ. Con không xứng đáng có được cuộc đời của ta, và giờ ta muốn lấy lại.”
“Không đâu, mẹ ơi.” Tôi giơ tay quệt những giọt nước mắt đang âm thầm rơi trên má. Mẹ bắt đầu bò lên giường. Đầu gối đè lên vết bẩn mà hai bàn tay vừa để lại. Mùi thối rữa càng lúc càng sực lên khủng khếp đến mức không chịu nổi.
Mãi đến lúc này tôi mới nhìn thấy rõ từng chi tiết trên khuôn mặt mẹ. Da mẹ chảy xệ, ẩm ướt, và xám ngoét. Lông mi và cả lông mày trơ trụi. Tóc trên đầu rụng cả mảng, nhưng có khi như thế lại là may, bởi đám tóc còn lại vừa rối, vừa bẩn, dính đầy bùn đất và những tạp chất mà tôi thậm chí còn không dám nghĩ tới.
“Ta chỉ cần đúng hơi thở của con thôi. Chỉ cần mỗi thế thôi...” Mẹ thì thào nói. Chiếc váy trên người mẹ thủng lỗ chỗ nhưng tôi vẫn nhận ra nó. Mẹ đã được chôn cùng với nó. Chiếc váy vốn dĩ là màu xanh da trời, cùng màu với đôi mắt mẹ, nhưng giờ nó đã bạc màu, bẩn thỉu và mục rữa giống như cơ thể mẹ.
“Mẹ ơi, mẹ không có ý đấy đâu đúng không.” Tôi cố nép sang một bên nhưng trong lòng biết rõ làm vậy cũng vô ích. Nếu mẹ đã có thể tìm ra tôi ở đây thì dù tôi có trốn đằng trời mẹ cũng sẽ tìm ra tôi. Tôi đã không sống cho xứng đáng với món quà mà mẹ ban tặng và giờ mẹ muốn lấy lại nó.
Và mẹ sẽ lấy lại được. Cả hai chúng tôi đều hiểu rõ điều đó.
“Con đã để cho cuộc đời của ta mục nát, hệt như cơ thể này vậy. Nếu con thực sự yêu ta, hãy trả lại cho ta thứ mà ngày đó ta đã dại dột cho đi...”
Tôi co vội chân lại, ép sát hai đầu gối vào ngực để giữ khoảng cách với mẹ nhưng tôi không còn chỗ nào để lui nữa, lưng tôi đã chạm vào thành giường. Mẹ với tay nắm lấy chân tôi, các ngón tay rờ rẫm lên xương bánh chè. Một thứ chất lỏng nhầy nhụa rỉ ra từ làn da mục rữa, chảy dài trên chân tôi và bốc mùi khủng khiếp.
Bụng tôi quặn thắt lại, toàn thân nôn nao. Nước mắt nãy giờ đã khiến cho tầm nhìn của tôi nhòe đi. Nỗi khiếp sợ như một nắm tay sắt đang bóp nát trái tim tôi.
Cuối cùng tôi đã cất tiếng thét, nhưng đã quá muộn. Tất cả đã quá, quá muộn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét