Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict
Bộ Sách: Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict (tập 2)
Tác Giả: Trenton LeeStewart
Thể Loại: Kỳ ảo, Huyền bí, Văn học phương Tây
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.comThế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart |
Chương 5: Khởi hành
Reynie mở phong bì, lấy ra hai tờ giấy viết khổ A4 và bắt đầu đọc:
Các cháu yêu quý,
Ta chào mừng các cháu từ nơi phương xa! Lúc này đây ta tin rằng các cháu một lần nữa đang tận hưởng niềm vui được bầu bạn cùng nhau. Ta rất vui sướng khi nghĩ đến điều đó.
Rhonda sẽ cung cấp cho các cháu vài chi tiết liên quan tới chuyến đi. Phần còn lại là đây: Chị ấy và Milligan sẽ đồng hành cùng các cháu, nhưng các cháu nên nghĩ về họ như những hành khách, còn bản thân các cháu chính là các hoa tiêu dẫn dường, chính các cháu mới là người phải giải quyết các manh mối sẽ đưa chúng ta đến với nhau. Lần nữa trong dịp lễ kỷ niệm này. Ta biết các cháu đang háo hức với thử thách này, và ta thật mong ngóng được nghe những câu chuyện kể về hành trình của các cháu.
Chuyến đi đó bắt đầu ở đây, nơi bốn đứa các cháu tụ hội cùng nhau. Những bước đi đầu tiên của các cháu sẽ được hướng dẫn trực tiếp, điều ẩn giấu ở trang kế bên sẽ đưa các cháu đi. Có thể các chuyến phiêu lưu sẽ đưa các cháu tới gần nhau hơn, mặc dù chúng mang các cháu đi xa khỏi mái ấm gia đình.
Thân ái,
Ngài Benedict
Bọn trẻ ngồi im lặng mất một lúc, sững sờ vì nó, ngài Benedict làm chúng cảm động sâu sắc. Ông đã vướng vào một rắc rối to lớn để tặng chúng điều gì đó thật đặc biệt. Ông có mảy may biết rằng số phận của chính mình sắp đi vào một ngã rẽ khủng khiếp như thế không, hay rằng món quà của ông sẽ dẫn lũ trẻ vào vòng nguy hiểm. Ông sẽ không bao giờ muốn chúng mạo hiểm - ít nhất trong tất cả những gì ông dự liệu - điều đó chính là lý do chúng quan tâm tới ông đủ để cũng làm vậy.
“Các cậu sẵn sàng chưa?” Cuối cùng Reynie hỏi.
Những đứa khác thì thầm đồng ý, thay đổi nét mặt tập trung khi Reynie đọc to câu đố:
“Tìm thứ gì? Mở tôi ra.
Thứ gì đó của bạn bên trong tôi là dối trá.
Dĩ nhiên bạn luôn luôn có thể tìm ra
Hy vọng trong tôi
(Thất vọng đến trước; ngạc nhiên tới sau).
Tìm gì, tùy thuộc vào người tìm kiếm
Người tìm cuộn dây; kẻ tìm cốc vại;
Người để tự nhiên; người nuôi dưỡng
Tìm gì, thứ sẽ thay đổi mọi người tìm kiếm.
(Chuyện này sẽ làm bạn thấy kỳ lạ),
Những thứ chứa bên trong tôi sắp sẵn ra
Và sẽ không bao giờ thay đổi
Nếu bạn vẫn không thể đoán ra tôi
Thì đây là manh mối:
Đáp án - tôi có nghĩa gì - những lời dối trá bên trong tôi cũng vậy.”
“Cậu đang đùa đấy à?” Kate nói khi Reynie đã kết thúc. “Cái đó mà là câu đố à? Nghe chả có nghĩa gì! Chẳng có gì liên kết chúng với nhau cả!”
Reynie nhìn cô vẻ hiếu kỳ. “Nó không vô nghĩa, Kate.”
“Điều đó là không thể, nó là cái gì chứ,” Constance đảo mắt nói. “Em không nghĩ mình có thể tức giận với ông - không phải ngay lúc này - nhưng ông có cần phải khiến cho nó khó khăn quá thế không? Làm sao chúng mình có thể giúp ông được nhỉ?”
“Nó nghe có vẻ ma thuật,” Sticky nói bằng giọng kinh hãi. “Nhưng ông sẽ không cho chúng mình một câu đố không thể giải. Có lẽ đáp án chỉ có vẻ như không thể giải thôi, nhưng không phải thật chứ! Giống như pháp thuật ấy!”
Constance chuyển sự chú ý qua Sticky, rồi lại đảo mắt chán nản lần nữa. “Nó không phải phép thuật, Sticky.”
Sticky nhìn cô nhóc chòng chọc. “Thế à, em có ý tưởng gì hay hơn không? Nếu nó không vô nghĩa, và nó không thể nào lại không giải được và cũng không phải phép thuật...”
“Nó là một cuốn từ điển,” Reynie nói, đứng dậy. “Giờ chúng ta hãy đi tìm nó nào.”
Kate thôi tự đập vào trán mình và Sticky lớn tiếng thông qua đáp án câu đố này (“Vậy ‘hy vọng’ đến sau khi ‘thất vọng’ nhưng trước đó là ‘ngạc nhiên’ bởi vì các từ ngữ theo trật tự a,b,c[3]! Mình hiểu rồi!”); còn Constance thì thô lỗ chỉ ra rằng câu đố này đã được giải rồi, không yêu cầu Sticky phải giải mã nữa; Reynie tóm lấy cánh tay Sticky để ngăn cậu bạn không cốc cho nhóc Constance một cái thật đau - trong chốc lát khi cả bọn đã sẵn sàng, lũ trẻ thực hiện kế hoạch của chúng.
[3] Trong tiếng Anh, thất vọng là disappoint, trong từ điển sẽ đứng trước từ surprise có nghĩa là ngạc nhiên.
Ngôi nhà của ngài Benedict, như chúng đều biết rõ, chứa nhiều sách hơn cả thư viện. Hầu hết mọi bề mặt đều đầy những chồng sách; hầu hết mọi bức tường đều thẳng tắp các giá sách. Theo Sticky - người nhớ chính xác vị trí của từng cuốn sách trong ngôi nhà - có mười bảy cuốn từ điển (hai mươi sáu nếu bạn tính cả ngoại ngữ nữa), bất cứ cuốn nào trong số đó đều có thể chứa manh mối tiếp theo. Lũ trẻ quyết định bắt đầu từ tầng thứ ba, nơi phòng ngủ của Constance, và tiếp tục xuống các tầng dưới nếu cần thiết.
Tầng ba bao gồm ba hành lang dài, một tá phòng và có vài góc thụt, hõm khuất - khoảng không gian đủ cho hàng nghìn cuốn sách, việc tìm mấy cuốn từ điển sẽ tốn một khoảng thời gian dài vô tận nếu không có Sticky. Vì thế, bọn trẻ có thể di chuyển chớp nhoáng từ giá sách này sang giá sách khác (từ tủ cà phê tới bậu cửa sổ), rà soát hết cuốn từ điển này sang cuốn từ điển khác khi Sticky chỉ chúng. Trong vài phút, cả bọn đã xem qua hầu hết các cuốn từ điển trên tầng ba - bao gồm các từ điển tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, tiếng Esperanto trong căn phòng nhỏ xíu của ngài Benedict, nơi làm chúng thấy thật buồn bã khi bước vào - nhưng mặc dù đã tìm thấy rất nhiều mọt trong sách và một cái đánh dấu trang bằng lụa thật đẹp (nó đã nằm trong túi Constance), và định nghĩa của một từ Hy Lạp mà Sticky đang định tra cứu, cả bọn vẫn chẳng có được manh mối nào.
“Thế còn phòng ngủ của Số Hai thì sao?” Kate hỏi.
“Không có từ điển trong đó đâu,” Sticky nói. “Số Hai nói với tớ là cô ấy thích đi tìm một cuốn từ điển khi cô ấy cần. Tra tìm các giá sách giúp cô ấy nhớ mọi thứ ở chỗ nào.”
Constance đang nhìn Sticky chằm chằm như thể cậu vừa nói cậu thích ăn mùn cưa vậy. “Hai người trò chuyện về từ điển ấy hả?”
“Bọn anh từng nói chuyện,” Sticky buồn bã đáp. “Anh đã không gặp cô ấy nhiều tháng rồi, em biết đấy.” Sau đó cậu chàng nhận ra Constance đang lấy mình ra làm trò cười. “Thỉnh thoảng ngó vào một cuốn từ điển cũng sẽ chẳng làm em đau đâu, Constance ạ. Vài từ mới có lẽ giúp cải thiện hơn cho thứ thơ ca kinh khủng của em đấy.”
“Những vần thơ của em nghe sẽ rất hay nếu tai anh không phải là tai gỗ,” Constance trả miếng.
“Tai anh,” Sticky nói qua hai hàm răng nghiến chặt, “vẫn nghe tốt nhé.”
“Để gọt đẽo còn có thể. Nhưng với thơ từ thì…”
“Làm ơn đừng nói nữa, Constance,” Reynie ngắt ngang. “Chúng ta không cần một cuộc tấn công vần điệu vào lúc này. Chúng ta cần tìm cho ra cuốn từ điển đó.” Hướng đến Sticky cậu ngầm ra hiệu ý nghĩa rõ ràng “bình tĩnh và phớt lờ cô nhóc đi.”
“Em thấy rồi đấy nhá,” Constance nói, tặng cho cậu một cái nguýt dài.
Reynie thở dài.
Chỉ còn phải tìm duy nhất một hành lang trên tầng ba nữa thôi. Cả bọn đã để nó lại sau cùng vì trên lối hành lang đó có căn phòng đặt Máy Thì Thầm. Hai bảo vệ luôn đứng chốt canh ở ngoài cửa phòng, và bọn trẻ hy vọng có thể tránh nói chuyện với bất cứ ai. Nhưng Sticky lại bảo có hai cuốn từ điển ở trong đó, nên chúng đành phải đến xem. May mắn là không có cuốn nào ở trong căn phòng ấy cả. Sticky nói, vì cả bọn đều biết, không ai được phép vào trong đó mà không có ngài Benedict. (Reynie không buồn nhắc rằng ngài Benedict sẽ chẳng để lại manh mối ở chỗ chúng không thể lấy được và cậu thấy nhẹ cả người khi Constance không tình cờ nói ra điều đó.)
Lũ trẻ đã vào trong căn phòng được canh gác đó một lần duy nhất khi ngài Benedict đưa chúng vào tham quan. Chúng ngưỡng mộ những sắc màu êm dịu và ánh sáng nhẹ nhàng mà ông dùng để làm yên lòng những người tới thăm nơi đó (hoặc “các vị khách” như cách ông vẫn gọi họ, để khiến họ cảm thấy được chào đón). Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi khách khứa của ngài Benendict có thể đứng trong hàng ngũ những người cần bình tĩnh vì họ đều là những cựu nạn nhân của Máy Thì Thầm trước đây, những con người không may mắn có ký ức bị ngài Curtain giấu mất - những ký ức đó giờ lại được ngài Benedict vận dụng chính Máy Thì Thầm để khôi phục lại. Căn phòng ấm cúng đó khác xa với bầu không khí lạnh lẽo, khắc khổ của phòng trưng bày Máy Thì Thầm chỗ ngài Curtain.
“Có thể sẽ khó chịu khi ký ức của một người đột nhiên quay trở lại,” ngài Benedict nói, “nhớ ra tất cả mọi chuyện cùng một lúc, nhưng điều quan trọng đã bị lạc mất quá lâu. Ta làm hết sức để giảm đi cơn sốc ấy cho họ.” Ông ra hiệu về phía một cái ghế bành êm ái được nhồi thật dày trong góc phòng. “Đó là chỗ các vị khách của ta ngồi. Nó dễ dàng nằm trong phạm vi tác động của Máy Thì Thầm, và ta nghĩ họ thấy như thế thoải mái hơn - ít cảm giác đe dọa hơn là chỗ ngồi mà em trai ta đã thiết kế.”
Ngài Benedict đặt Máy Thì Thầm ẩn phía sau một tấm bình phong trang trí, nhưng lũ trẻ không cần phải nhìn mới nhớ tới nó. Thực ra tất cả mấy đứa trừ Kate ra đều đã ngồi trên cái ghế kim loại cứng ngắc của cỗ máy đó rồi, hai cổ tay chúng bị còng chặt, mũ chụp ép chặt quanh đầu. Và cả bốn đứa đều nhớ cái thời khắc kinh hoàng khi chúng nhận ra ngài Curtain có thể dùng thứ công cụ này để rà soát trí nhớ của chúng - quét trí não, ông ta gọi nó như thế - thậm chí cả khi chúng đứng cách xa nó tới mấy mét liền. Phải, tất cả bọn trẻ đều hoàn toàn nhớ như in Máy Thì Thầm, và thấy khá bằng lòng để cái máy giấu sau tấm bình phong trong căn phòng khóa kín và được canh phòng nghiêm ngặt ấy.
Khi lũ trẻ đi vào hành lang dẫn đến căn phòng đó, hai người bảo vệ ở cửa liền hướng đến chúng mỉm cười lịch sự nhưng e dè. Những bảo vệ này không được tỏ ra thân thiện trong khi làm nhiệm vụ, dĩ nhiên là thế rồi, và họ cũng biết bọn trẻ được tự do dạo chơi trên các lối hành lang; họ có thể để chúng đi qua mà không thắc mắc gì. Nhưng tùy thuộc vào những thông tin bí mật họ có (nói cách khác là tùy thuộc vào việc truy cập thông tin được phân loại của họ), mà các bảo vệ có thể cũng biết vài điều liên quan đến tiểu sử của bọn trẻ, và điều này làm Reynie lo lắng họ sẽ nghi ngờ bất cứ hành động khác thường nào.
“Cậu chắc chắn có một cuốn từ điển ở chỗ này chứ?” Reynie hỏi Sticky như thể chúng đang trong cuộc bàn bạc dở dang nào đó.
“Đúng thế, tất nhiên là có, Reynie ạ, mình chắc chắn điều đó,” Sticky đáp bằng cái giọng quá ư cứng nhắc đến nỗi Reynie phải nhăn mặt. Chúng cần ngụy trang hành động của mình.
Thật bất ngờ, Kate lại còn có tính thuyết phục hơn cả hai cậu nhóc. Làm như vô tình nghịch ngợm mái tóc đuôi ngựa của mình, cô bé nháy mắt với hai người bảo vệ và nói bằng một giọng êm du, “chỉ tra có một từ thôi mà.”
Hai viên bảo vệ gật đầu, nhưng một người trong số họ - một người đàn ông lực lưỡng như một con chó bun - quan sát bọn trẻ đầy ngờ vực. Reynie quay lưng lại, tốt hơn cả là giấu đi nét mặt lo lắng bồn chồn của cậu. Sticky thì đã xác định được vị trí của cuốn từ điển đầu tiên và đang tức tốc kiểm tra nó trong khi mấy đứa bạn kia tiếp tục nhìn. Cậu đóng nó lại với một tiếng thở dài nản lòng. “Không may rồi.”
Viên bảo vệ to con lực lưỡng liền nghiêng người về phía bọn trẻ. “Chắc đó là một từ rất khác lạ hả? Các cháu nên thử tìm cuốn từ điển kia xem. Nó thật sự to lắm đấy.”
“Làm sao chú biết được có một cuốn từ điển khác nữa ạ?” Sticky ngạc nhiên hỏi.
“Bọn chú còn có thể nhìn cái gì khác suốt ngày ngoại trừ mấy cái giá sách này?” Viên bảo vệ nói. Ông ta chỉ về lối nhỏ xuôi theo mấy cái giá. “Nó ở ngay kia kìa, cuốn vĩ đại ấy. Đợi đã, giờ nó đâu rồi nhỉ? Tôi nhớ nó rõ ràng - trong tình trạng kinh khủng với các đường nối đã rời rã cả ra rồi. Nó ở ngay chỗ đó, tôi chắc chắn đấy.”
“Cháu biết cuốn từ điển chú định nói,” Sticky đáp, chỉ vào một khoảng trống trên giá sách. “Nó đã ở ngay chỗ đó.”
Viên bảo vệ kia lên tiếng. “Ồ, ngài Benedict đã lấy cuốn đó đi rồi! Vài tuần trước. Lúc đó anh đang nghỉ giải lao, Russ ạ,” anh ta nói với viên bảo vệ lực lưỡng. “Ông ấy nói sẽ sửa lại nó, nhưng tôi không nghĩ ông ấy có thời gian với nó trước khi đi. Tôi đã thấy cuốn sách ấy trong phòng làm việc của ông chưa đầy hai ngày trước, và nó vẫn trong hình dáng kinh khủng ấy.”
Tim Reynie lỗi nhịp. “Trong phòng làm việc của ông ấy ạ? Thế thì cháu nghĩ chúng cháu nên đi xuống đó ạ.” Cậu và mấy đứa bạn nhanh nhanh chóng chóng quay đi, bất chợt lối đi bị chặn lại.
“Nghe này, mấy nhóc, tôi biết các cháu đang làm gì,” viên bảo vệ to con tên Russ nói.
Cả bọn trừng trừng nhìn ông ta bối rối mất hết cả tinh thần. Làm sao ông ta biết được? Liệu đây có phải là kết thúc trước khi chúng kịp bắt đầu không?
Reynie buộc mình phải cất lời. “Chú biết chúng cháu… đang làm gì ạ?
“Các cháu đang cố gắng làm mình xao lãng,” Russ nói. “Tôi hiểu mà. Các cháu lo lắng cho ngài Benedict và Số Hai, và đang đau lòng khi nghĩ đến bất cứ điều gì. Tôi đúng chứ?”
“Vâng!” Sticky la lên từ phía sau Reynie. Cậu chàng nghe có vẻ quá hào hứng đồng tình, và Russ có lẽ hơi khựng lại cân nhắc điều này nếu Constance không khoanh tay trước ngực và gắt gỏng nhấn mạnh, “Nếu chú nói thế.”
“Hãy để tôi cho các cháu vài lời khuyên,” Russ nói đưa tay cà cà vào quai hàm bên trái. “Nếu các cháu thật sự định làm mình xao nhãng thì đừng đi xuống phòng làm việc của ngài Benedict. Hãy quay về phòng các cháu và chơi một trò thật vui vẻ vào. Được chứ?”
“Tại sao ạ?” Reynie hỏi. “Tại sao không được vào phòng của ngài ấy ạ?”
“Đang có một vụ việc nghiêm trọng ở dưới đó, con trai ạ. Lúc này bọn họ đang xem tất cả giấy tờ của ông ấy - từng thư mục, từng tệp tài liệu và sách vở - họ đang tìm kiếm manh mối xem ông ấy đang ở đâu. Dù thế nào đi nữa, họ sẽ không để các cháu vào trong đó đâu. Ít nhất là không cho tới lúc bọn họ làm xong hết.”
“Cảm ơn chú,” Reynie nói một cách bình thản hết mức có thể. “Thật là... một lời khuyên hữu ích. Đi nào mọi người, đi chơi trò gì đó nào.”
Lũ trẻ vội vã nói lời chào tạm biệt với mấy viên bảo vệ, hai người này sửng sốt quan sát khi chúng đâm sầm vào nhau, tách ra rồi bước đi tập tễnh kỳ lạ xuôi theo hành lang; như thể chúng đang cố gắng không chạy đi trong cơn hoang mang lo lắng.
“Lũ trẻ tội nghiệp,” Russ hạ giọng nói. “Chúng sẽ chẳng làm được gì để tránh khỏi những điều đáng sợ ấy.”
***
Ngay khi lũ trẻ ra khỏi tầm nhìn của mấy bảo vệ, chúng lao ngay vào căn phòng trống đầu tiên (tình cờ lại là phòng ngủ của Số Hai) để bàn bạc về tình trạng tiến thoái lưỡng nan này.
“Nếu họ tìm thấy manh mối đó,” Kate nói, đóng cánh cửa phòng lại, “thì các cậu biết đấy chúng mình sẽ chẳng bao giờ thấy được nó cả.”
“Có thể họ đã tìm thấy nó rồi,” Constance nói. Cô nhóc chán nản thả người lên tấm thảm trải sàn màu vàng chanh mà Số Hai đã dệt cho cái sàn phòng của mình. “Từ tất cả những gì chúng ta biết, họ đang lên kế hoạch cho một cuộc giải cứu tai hại nào đó ngay khi chúng ta đang nói chuyện lúc này.”
“Chúng ta phải giả định là họ chưa tìm thấy nó,” Reynie nói. “Ngài Benedict có nhiều sách và giấy tờ khủng khiếp trong văn phòng làm việc, họ có lẽ sẽ không nghĩ đến việc kiểm tra cuốn từ điển đó cho tới khi đã kiểm tra mọi thứ khác rồi.”
“Chúng mình cần một cuộc đánh lạc hướng,” Kate nói. “Việc gì đó để khiến họ ra ngoài đủ lâu cho chúng mình lẻn vào trong và tóm lấy cuốn sách đó.”
“Có ý tưởng nào không?” Reynie hỏi.
Sticky bắt đầu nhìn quanh căn phòng như đang tìm kiếm cảm hứng. Mọi thứ cậu nhìn thấy đều quá đỗi quen thuộc với cậu: cái tủ quần áo để mở với dãy quần áo màu vàng chanh; cái giỏ đựng đồ may vá và những chồng tạp chí khoa học cạnh giường (Số Hai chỉ ngủ - hiếm khi nào hơn một hoặc hai tiếng đồng hồ - và lấp đầy những đêm dài bằng các hoạt động lặng lẽ); cái bàn viết ngăn nắp gọn gàng với mớ bút viết cắm trong một cái cốc; và dĩ nhiên cả tủ tích trữ đầy đồ ăn vặt (dù cô ngủ ít, nhưng Số Hai lại phải ăn hầu như không ngừng nghỉ nếu không sẽ trở nên khó chịu cáu gắt và yếu xìu).
“Tớ ước gì chúng mình không vào căn phòng này,” Sticky lầu bầu, chán nản trước quá nhiều thứ gợi nhớ đến người bạn mất tích của cả bọn. Cậu ta đi đến cửa sổ tìm kiếm thứ gì đó khác lạ để ngắm nhìn.
Thật khó mà miêu tả được cái Sticky nhìn thấy qua ô cửa sổ. Quả vậy, nó là một trong số những quang cảnh kỳ lạ nhất mà cậu từng được chứng kiến. Trong khoảng sân bên dưới, ba viên sĩ quan cảnh sát đang xoay mòng mòng xung quanh với những cẳng chân lơ lửng văng phía sau, như thể họ là những cái nan hoa của một chiếc bánh xe. Tất cả bọn họ đang cố gắng giữ lấy cái thứ đang làm họ xoay tròn tròn ấy; họ rơi hết cả mũ; một người thậm chí còn mất cả chỏm tóc giả che phần đầu bị hói, nó nằm lăn lóc trên mặt đất giống như một con chồn bị đánh bất tỉnh vậy. Cùng lúc ấy, trên vỉa hè phía sau hàng rào, ông Bane khó chịu kia đang nỗ lực chặn đứng nhưng không thành công, ông ta ngã ngửa nằm thẳng cẳng và nhìn chằm chằm lên trời có vẻ hoang mang lắm. Và như thể tất cả chuyện này còn chưa đủ khiến Sticky nghi ngờ mình đang nằm mơ, thì một cảnh tượng còn kỳ quái hơn hiện ra, một con chim khổng lồ sà xuống quắp lấy mái tóc giả của viên cảnh sát nọ, bay lên mái hiên nhô ra của ngôi nhà.
Sticky giụi giụi mắt, chằm chằm nhìn lại, và đột nhiên hiểu ra. “Tớ nghĩ chúng mình đã có được vụ đánh lạc hướng rồi đấy - Moocho Brazos vừa đến.”
Những đứa kia vội đổ xô ra cửa sổ (Sticky nâng Constance lên cho cô nhóc nhìn thấy được) và nhanh chóng hiểu cuộc náo động ở bên dưới: Moocho đã đến để gặp Kate vì lý do nào đó; ông Bane đã thô lỗ từ chối chấp nhận anh ta, điều này khiến ông ta bị ném bay qua hàng rào; còn mấy viên cảnh sát sau đó buộc phải làm căng với người đàn ông to lớn này, điều đầu tiên họ làm là tóm lấy anh ta, rồi sau đó tuyệt vọng đeo dính lấy khi anh ta cố gắng xoay bọn họ văng ra trên đường đi đến cửa trước ngôi nhà.
Một tiếng còi reo inh ỏi từ nơi nào đó dưới nhà, tiếp sau đó là tiếng những cánh cửa mở rầm rầm, mọi người đổ xô ra hành lang và cầu thang. Bảo vệ túa ra như đàn ong vỡ tổ để tới lối ra, mọi người khác đều vội vàng chạy tới các cửa sổ để xem có chuyện gì.
“Sticky đúng đấy!” Reynie reo lên. “Bây giờ là cơ hội của chúng ta!”
Rồi xoay ngoắt người nhanh nhất có thể, cậu phát hiện cánh cửa phòng ngủ đã mở rộng và Kate Wetherall đã biến mất tăm.
***
Cả bọn thấy Kate đang đi lên cầu thang ngay khi chúng bắt đầu đi xuống. Trong vòng tay cô bé là một cuốn từ điển đồ sộ cũ kỹ, và đôi mắt xanh biếc lấp lánh đầy phấn khích. Cô bé chỉ ra phía sau về phía lối bọn trẻ vừa đến. Bọn chúng liền quay lại và hướng thẳng tới phòng của Constance, ở đó Kate khóa cửa rồi đi tới cửa sổ.
“Tốt,” cô bé nói rồi ngó ra ngoài. “Rhonda đã ở dưới đó và đang cố gắng làm rõ mọi chuyện rồi. Chúng mình sẽ có thêm thời gian.” Cô bé tặc lưỡi. “Tội nghiệp Moocho. Tớ đánh cuộc là anh ấy có bức điện của chị Rhonda và đã lo lắng phát điên.”
“Cậu không bị nhìn thấy chứ?” Sticky hỏi.
Kate nhún vai. “Không.”
Dù đã biết rõ cô bạn, nhưng mấy đứa vẫn nhìn Kate chằm chằm, kinh ngạc hết sức. Chỉ trong vòng có vài giây - trong khoảng thời gian mấy đứa còn lại vừa đến được cầu thang - thì cô bạn đã phi xuống gác vào phòng làm việc, tìm thấy cuốn từ điển, và ra khỏi đó mà không bị phát hiện. Điều đó dường như là không thể.
Kate nhận ra vẻ mặt của các bạn. “Gì thế?” Cô bé cúi xuống nhìn mình trong tấm gương treo tường của Constance. “Tớ có thứ gì trên mặt à?” .
“Chỉ cần cho bọn em xem cuốn từ điển ngu ngốc đó thôi,” Constance bực bội nói. (Cô nhóc vẫn gặp rắc rối với việc buộc dây đôi giày.)
Kate đặt cuốn sách dày cộp xuống sàn, mọi người cùng quỳ xuống để nhìn gần hơn. Cuốn từ điển này là một món đồ cũ kỹ rách nát với những cái bìa méo mó xộc xệch - bằng chứng của việc bị đổ nước vào trước đây rất lâu - còn cái gáy sách thì vô phương cứu chữa. Cẩn thận rón rén để không phá hoại nó thêm nữa, Reynie mở cuốn sách ra và bắt đầu lật từng trang. Một vài trang dính cứng vào nhau không tách ra được; vài trang rơi tả tơi ra ngay khi mới chạm vào. Mùi nấm mốc vẩn lên khắp phòng.
“Ngài ấy đáng lẽ nên vứt cái thứ này đi từ lâu rồi mới phải,” Constance nói, chun chun cái mũi trước mùi nấm mốc. “Nó thậm chí còn không thể dùng được nữa.”
Reynie lật một trang nữa để lộ ra một khoảng cắt sâu hình chữ nhật giữa những trang sách. Nằm lọt thỏm trong khoảng trống được khoét đó là một quyển sách khác. “Có lẽ không thể sử đụng được với tư cách là một cuốn sách. Nhưng với tư cách là một nơi cất giấu thì nó thật hoàn hảo.”
Cuốn sách thứ hai có bìa da màu nâu và cũng khá lớn. Reynie nhanh chóng giở trang đầu tiên, nó trống trơn ngoại trừ câu đề tặng sau:
Các vị khách nên thường xuyên giữ những cuốn nhật ký, và các cuốn nhật ký nên thường xuyên lưu giữ các bí mật. Cuốn nhật ký này không ngoại lệ. Ta đã mạn phép viết vào trang nhật ký đầu tiên rồi. Hãy đọc nó thật nhanh và chuyển tiếp cho những người khác. Chúc chuyến đi vui vẻ! - Ngài Benedict
Cùng với mấy đứa bạn dòm qua vai, Reynie lật thêm vài trang nữa. Thật khó mà đánh giá được liệu cuốn nhật ký này là một món quà đắt giá hay thứ gì đó ngài Benedict vớ được từ một đống đồ hạ giá - một vài thứ bị bỏ đi vì là một sản phẩm lỗi và được bán đổi lấy một vài đồng. Mặc dù được làm từ chất giấy nặng, tốt nhưng những trang giấy của nó bị xén lỗi gồ ghề, đến mức một vài trang lại có khổ rộng hơn những trang khác. Mỗi trang đều trống trơn ngoại trừ một chữ cái được viết ở góc ngoài dưới đáy cùng. Reynie lật tới mặt sau cuốn sách. Cũng thế. Một chữ cái ở mỗi trang, nhưng sắp xếp các từ đó lại cũng không tạo thành những câu rõ nghĩa.
“Chúng mình hãy xem lần lượt thật kỹ càng và chậm rãi thôi,” Kate nói.
Reynie quay lại mặt trước và bắt đầu giở các trang cùng một lúc, làm thế một lèo cho tới tận cuối. Vài trang đầu thu được chuỗi các từ sau:
CẮM XUỐNG NHỮNG BÔNG HỒNG VÀ SỐ BA NẮM LẤY CÁC CƠ HỘI NẮM LẤY THỜI GIAN ĐỂ TIN TƯỞNG NHỮNG NGỌN NẾN MÀU NU VÀNG LẤY CÁC GHI CHÚ LẤY THƯỚC KẺ CỦA TÔI NỮA CỞI GĂNG TAY MANG VỀ NHÀ.
Khoảng một phần ba cuốn nhật ký có một chuỗi từ khác bắt đầu:
MAY MẮN CỦA NHỮNG NGƯỜI ANH EM TÔI Ý NIỆM VÀ HẬU QUẢ TÊN VÔ LẠI CON SU LÀM RẦU NỒI CANH DY THẦN KINH CU ĐỐ CÁ NHÁM GÓC ĂN CÁ DA TRƠN ĐÁP ÁN.
Và một phần ba cuối cuốn nhật ký, các từ ở góc đáy trang lại chạy tiếp như thế này:
ĐƯỜNG TẮT CẮT TÓC ĐƯỜNG TẮT XANH ĐƯỜNG TẮT TÓC HÚI CUA ĐƯỜNG TẮT LÀM ĐƯỜNG TẮT LẠNH CẮT ĐƯỜNG TẮT BẠN ĐƯỜNG TẮT CÚ ĐẤM MÓC ĐƯỜNG TẮT XUYÊN QUA.
Sticky gãi gãi đầu. “Nó là một kiểu câu đố chữ nào đó, tớ thấy thế.”
“Nó đã nhắc đến từ ‘câu đố’,” Kate nói. “Có lẽ đó là manh mối?”
Hai đứa cùng nhìn Reynie để cầu cứu, nhưng Constance làm cả bọn ngạc nhiên bằng việc cất lời trước. “Đi đường tắt,” cô nhóc thì thầm, như đang nói với chính mình.
“Gì cơ?” Sticky hỏi.
“Đó là đáp án,” Constance tuyên bố, bây giờ càng tự tin hơn. “Hãy đi đường tắt.”
Reynie nhìn Constance thăm dò thật lâu. Cô nhóc nhìn chằm chằm lại như thể thách thức cậu dám cự cãi. Thay vào đó cậu quay sang hai đứa bạn và nói, “Tớ đồng ý với Constance.”
Sticky lắp bắp. “Nhưng… nhưng làm thế nào...”
Kate đang liếc nhìn tới nhìn lui Reynie và Constance. “Điều gì khiến cậu nghĩ thế?” cô bé hỏi, mặc dù có vẻ không biết hỏi ai trong hai bọn họ.
Reynie chìa bàn tay về phía Constance, ý bảo cô bé nên trả lời.
“Điều đó rõ ràng mà,” Constance nói. “Chúng chỉ có ba từ duy nhất được lặp đi lặp lại. Những từ khác chẳng có nghĩa gì - chúng chỉ là những thứ thêm vào để trông có vẻ kỳ quái thôi.”
“Chúng có thể được lặp lại rất nhiều lần,” Sticky nói, “nhưng làm sao em có thể chắc chắn cái đó là quan trọng?”
“Hãy nhìn chúng mà xem,” Constance nói. “Chúng luôn ở góc của một trang giấy khổ rộng, không bao giờ ở góc trang giấy khổ hẹp. Thế không phải trông có vẻ quan trọng à?”
Sticky không phải nhìn. Cậu hoàn toàn nhớ rõ các chữ cái đó ở từng trang giấy. “Ok, cũng đúng thế thật. Nhưng tại sao các trang giấy khổ lớn hơn lại quan trọng? Ai nói chúng ta có thể loại trừ các trang giấy hẹp kia?”
Constance nhún vai. Cô nhóc không có câu trả lời cho điều này. “Dù thế nào em biết là em đã đúng,” cô bé đáp. “Em chỉ có thể nói thế thôi.”
Reynie băn khoăn nhìn cô bé đăm đăm. Cậu nghĩ thật hiển nhiên khi Constance làm chúng ngạc nhiên. Cứ theo như những gì cô bé có khả năng làm được ở tuổi lên hai, thì chẳng có gì để nói về điều cô bé có thể làm được lúc này khi đã ba tuổi. Sau rốt thì cô nhóc chắc hẳn đã phát triển rất nhiều trong sáu tháng vừa qua.
“Reynie?” Kate gọi. “Có ý kiến gì về những trang sách khổ lớn ấy không?”
Reynie mở cuốn nhật ký tới phần đề tặng của ngài Benedict và rê ngón tay theo cụm từ này: Đọc nó thật nhanh. “Nhớ cái đó không? Tớ đoán nó quan trọng, ngài Benedict biết vài người trong chúng ta đọc nhanh đến mức nào - đặc biệt là Sticky.”
“Tốc độ thì có liên quan gì tới ý nghĩa của những từ đó chứ?” Kate hỏi.
“Tốc độ phải có liên quan tới những từ cậu nhìn thấy,” Reynie nói, và cùng lúc mọi người vẫn đang nhìn, cậu trải rộng theo hình quạt các trang nhật ký từ trái sang phải. Chắc chắn, chỉ có duy nhất những từ đó xuất hiện ở góc dưới cùng là: HÃY ĐI ĐƯỜNG TẮT.
“Oa, các cậu biết rồi!” Kate reo lên cười vang. “Tất nhiên rồi! Những từ kia ở các trang giấy khổ hẹp nên khi cậu trải ra như thế...”
“... chỉ có các góc của trang giấy lớn mới xuất hiện,” Sticky nói nốt và gật gù. “Phải rồi, tớ cũng thấy thế.”
Kate huýt sáo. “Tớ sẽ không đoán ra nổi điều đó trong cả triệu năm nữa.”
Constance trông cực kỳ phổng mũi.
“Được rồi, vậy là chúng mình đã bước được một bước tới gần hơn,” Reynie nói. “Chúng mình cần đi đường tắt. Nhưng đường tắt nào? Đường tắt dẫn tới đâu?”
Cả nhóm rơi vào yên lặng, Reynie chống cằm vào hai bàn tay, cố gắng tập trung. Từ khóe mắt cậu thấy Constance cũng đang làm y như thế. Lúc đầu cậu nghĩ cô bé đang chế nhạo trêu chọc cậu, nên định bảo cô nhóc thôi đi. Nhưng rồi cậu thấy cô bé nhắm mắt, rõ ràng cũng đang cố gắng suy nghĩ. Reynie cảm thấy một thoáng vô cùng kỳ quái. Cậu chưa kịp có thời gian nấn ná lại với cảm giác đó thì có người gõ cửa.
“Các em đều ở trong đó à?” tiếng Rhonda hỏi. “Các em có khách đến thăm này.”
Lũ trẻ trao nhau những cái nhìn chán nản. Nếu chúng không muốn làm dấy lên nghi ngờ, chúng không có lựa chọn nào cả. Trong thoáng chốc, cuộc họp của hội đã bị trì hoãn.
Mục Lục
0 nhận xét:
Đăng nhận xét