Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 9

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 9: Các chỉ dẫn, những hồi tưởng, và những món nợ chưa trả

Ý nghĩ đầu tiên lướt qua đầu Reynie là cậu đang đói lắm. Cậu đã không ăn gì từ tối hôm trước, và bây giờ – à, rốt cuộc mấy giờ rồi nhỉ? Cậu chẳng biết mình đã ngủ bao lâu nữa. Ít nhất cơn ốm mệt cũng đã qua, Reynie sẽ lựa chọn những cơn đau quặn vì đói còn hơn là say sóng. Reynie sẽ chọn hầu hết mọi điều còn hơn là say sóng.
Cậu, Sticky và Constance đã mất cả đêm đầu tiên trên con tàu Đường Tắt này với cảm giác ốm yếu hơn bao giờ hết. (Kate, đã chỉ cho bọn bạn tới rất nhiều phòng tắm, còn nàng thì ngủ ngon lành trong ca bin yên tĩnh.) Khi cơn nôn nao của chúng cuối cùng cũng dịu đi vào sáng sớm, cả bọn đều lăn kềnh vào giường và ngủ thiếp đi. Reynie có một ký ức mơ hồ – hay đó là một giấc mơ? – về thuyền trưởng Noland đang nói chuyện với Kate bằng giọng thì thào ở cửa ca bin, nhưng rồi cậu lại hoàn toàn quên béng mất mãi cho tới lúc này.
Tâm trí Reynie phút chốc chuyển hướng tới ngài Benedict và Số Hai. Chỉ còn lại ba ngày, cậu nghĩ, và sự khẩn cấp cậu cảm thấy từ buổi sáng hôm qua bám riết lấy cậu với cảm giác căng thẳng mãnh liệt mới. Cậu mở choàng mắt ngồi dậy. Ca bin tối như bưng. Có lẽ Kate đã che thứ gì đó lên ô cửa sổ để giúp họ ngủ yên chăng? Không, liếc mắt nhìn ô cửa sổ cho thấy không có thứ gì như thế cả. Cậu gãi đầu và ngáp, để rồi phải ngậm vội miệng lại – cắn cả vào lưỡi đau điếng – khi Kate nhảy chồm ra từ bóng tối tót lên giường cậu. Cô bạn chiếu chiếc đèn trên bút máy vào mặt cậu.
“Có chuyện gì thế?” Kate hỏi. “Tớ làm cậu sợ à?”
“Đừng bận tâm,” Reynie gắt gỏng nói. “Chuyện gì đang diễn ra thế? Tớ đã bất tỉnh bao lâu rồi?”
“Quá lâu. Giờ là buổi tối rồi. Thuyền trưởng sẽ đến đây sớm thôi.”
“Buổi tối á?”
“Phải, tớ đã chờ các cậu tỉnh dậy đến phát điên đấy,” Kate nói. “Đạn Thần Công cho tớ đến thăm Madge ít phút vào giờ ăn trưa, nhưng còn lại tớ bị giam chần ở đây cả ngày mà chẳng có ai để nói chuyện cả. À tiện đây, cô bé đang khỏe lắm. Đạn Thần Công tặng cho cô nàng ít thịt lấy từ nhà bếp – anh ấy gọi nó là ‘thức ăn của ếch’ – và tớ nghĩ cô bé có lẽ đang phải lòng anh ấy mất rồi.”
“Thuyền trưởng đã đến rồi à?” Reynie hỏi. “Hay tớ nằm mơ?”
“Không, ông đến vào sáng nay. Cậu không nhớ à? Cậu đã ngồi dậy và nói gì đó như là ‘trứng bác’, rồi lại ngã xuống ngủ.” Kate giúi cho cậu một mảnh giấy. “Ông ấy mang đến cái này. Ông không chắc nó có nghĩa gì, nhưng nói là hôm nay ông đã nghĩ về nó.”
Reynie nhìn mảnh giấy, nhưng tối quá không đọc được. “Thuyền trưởng đọc cái này à? Ông ấy không đợi chúng mình xem trước à?”
“À, không,” Kate nói. “Ông đã xem nó. Tớ chắc ông ấy chỉ muốn giúp đỡ thôi.”
“Tớ cũng nghĩ thế,” Reynie khó chịu nói. Rhonda đã để chúng mở phong bì trước, và chẳng hiểu sao cậu đã kỳ vọng thuyền trưởng Noland cũng sẽ làm vậy. Nhưng các tình huống ở nhà ngài Benedict thì khác, Reynie tự nhắc mình. Dù sao, chẳng lẽ cậu không vui khi thuyền trưởng quan tâm sao?
“Tớ đã nhìn chòng chọc vào nó suốt cả ngày,” Kate vẫn đang nói. “Nó không hẳn là một cầu đố nữa – có phần giống các chỉ dẫn hơn – nhưng tớ vẫn chẳng tiến triển được mấy với nó cả.”
“Cho tớ mượn cái đèn bút của cậu nào,” Reynie nói rồi soi cái đèn lên mảnh giấy, cậu đọc:
Làm tốt lắm, các bạn nhỏ của ta, và chúc chuyến vượt biển của các cháu thật vui vẻ! Vui lòng lần theo dấu vết của các cháu lên chỗ những manh mối dẫn dắt các cháu - đó là nơi các cháu sẽ tìm thấy chiếc phong bì tiếp theo! - Ngài Benedict.
Ở giữa trang giấy trống trơn ngoại trừ một vết cháy sém lớn (“Không phải tin nhắn bằng nước chanh đâu,” Kate thì thào.) Reynie rà xuống phía dưới cùng, chỗ đó ngài Benedict viết các dòng tiếp:
Lâu đài trùng tên với Sticky
Dựa vào bức tường tận cùng phía tây
Không nhìn thấy được
Cần dụng cụ
Gần những cây olive
Không nút bẩn hay gỗ thông cho hai mét.
“Tớ đoán lâu đài này phải ở trên một ngọn đồi,” Kate nói, “đó là lý do ông đã nhấn mạnh nói đi lên tới chỗ các manh mối dẫn dắt đến. Nhưng tớ chưa bao giờ nghe nói đến một lâu đài nào tên Sticky hay George hay Washington hay bất cứ gì đại loại thế cả, còn cậu?”
Reynie lắc đầu. “Dù vậy, tớ sẽ đánh cuộc Sticky biết.”
“Tớ sẽ đánh thức cậu ấy dậy,” Kate nói, lăn xuống khỏi giường.
Một lát sau Sticky la lên oai oái trong bóng tối, và Reynie nghe thấy Kate hỏi, “Tớ làm cậu sợ à?”
Sticky vẫn còn đang cằn nhằn với cô bạn thì thuyền trưởng Noland đến cùng với bữa tối của chúng. Ông mang đến một cái khay chất đầy bánh kẹp bơ lạc, hoa quả, bánh quy và sữa. Tuy nhiên, ông rất ngại ngùng vì không có cà phê.
“Bác e là đã để quên ấm cà phê ở đây tối qua,” thuyền trưởng Noland nói, khi họ đã đánh thức Constance và bật đèn lên. “Và ông Pressius yêu cầu phải để ấm cà phê của ông ta trong ca bin riêng nên bác chẳng còn cái nào khác cả.” Lũ trẻ sốt sắng đảm bảo với thuyền trưởng rằng chuyện này hoàn toàn ổn cả, rồi đói khát tấn công đồ ăn. (Constance như thường lệ với tới món bánh quy trước tiên.)
“Bác mừng khi thấy các cháu khỏe hơn,” thuyền trưởng Noland nói, còn bản thân ông lại có vẻ đang trong tình trạng sức khỏe thật tồi tệ. Bộ quân phục nhăn nhúm nhầu nhĩ hơn bao giờ hết, nhưng rõ ràng ông đã không ngủ được chút nào. Hai bờ vai ông chùng xuống, đôi mắt vằn tia máu sưng húp, và ông đang kìm nén một cái ngáp khi hỏi, “Có may mắn nào với lá thư không? Bác e là bác không có cơ hội để suy nghĩ về nó nhiều lắm.”
“Thực ra, bọn cháu cũng thế,” Reynie nói. “Cháu mới chỉ liếc qua được nó, còn Constance và Sticky thì chưa nhìn thấy nó nữa.” Cậu cố đưa lá thư cho Constance, nhưng cô bé vẫn còn rất lảo đảo (quá lảo đảo nghiêng ngả đến nỗi cô nhóc quên mất cứ vơ lấy phần bánh bích quy nhiều hơn phần ăn của mình), và cô nhóc từ chối đón lấy nó. “Em sẽ xem nó sau,” cô bé con lúng búng nói.
Vậy nên Reynie chuyển lá thư cho Sticky, cậu này vừa mới liếc nhìn một cái đã reo lên, “Này, cái này dễ quá! Đó là một lâu đài ở Lisbon!”
Lời vừa ra khỏi mồm Sticky là Kate đã vỗ lấy vỗ để vào lưng cậu ta (mạnh đến nỗi cậu bạn gần như mắc nghẹn miếng bánh kẹp), còn Reynie thì nhắc đi nhắc lại mãi câu, “Tớ đã biết là cậu biết đáp án mà,” mặt cậu ta đỏ bừng vì phấn khích. Ngay cả Constance cũng thể hiện sự tán thưởng bằng cách không chôm bánh quy của Sticky trong khi cậu ta đang bị làm cho xao lãng. Bọn chúng đã cần hy vọng đến nhức nhối, và Sticky đã cho chúng điều đó.
Sau khi yên tĩnh trở lại, thuyền trưởng Noland nói, “Jorge là họ của cháu hả, Sticky?”
“Là Geogre ạ,” Sticky đáp.
“Ồ, dĩ nhiên!” thuyền trưởng Noland, trông khá bị ấn tượng. (Sticky, đang tươi tỉnh rạng rỡ, giờ rõ ràng được soi sáng).
“Có ai trong các vị vui lòng giải thích cho những người còn lại chúng cháu được không?” Constance nói.
“Lâu đài Thánh George,” thuyền trưởng Noland nói. “Ở Bồ Đào Nha được gọi là Castelo de São Jorge và vì nó ở Bồ Đào Nha, nên ta luôn nghĩ đến nó như thế. Cháu học nói tiếng Bồ Đào Nha ở đâu thế, Sticky? Hay bác nên gọi cháu là Jorge?”
Sticky cười giòn – có hơi bồn chồn, dường như hướng tới Reynie – nói, “Cháu biết rất nhiều ngôn ngữ. Đó chẳng phải việc gì to tát, thật đấy.” (Reynie nhận thấy đây không thật chính xác là câu trả lời cho cầu hỏi của thuyền trưởng Noland, nhưng ông ấy không nhận ra hoặc cũng không để ý.)
“Bác có thể tưởng tượng được lý do Nicholas chọn để cử các cháu lên trên đó,” thuyền trưởng Noland nói. “Ông ấy rất thích quang cảnh từ trên tòa lâu đài đó nhìn xuống mặt đất. Có lẽ ông muốn chia sẻ nó với các cháu.”
“Vậy là lâu đài đó ở trên một ngọn đồi,” Kate góp lời. “Cháu nghĩ thế.”
“Ngọn đồi cao nhất ở Lisbon đấy.” Đôi mắt mệt mỏi của thuyền trưởng Noland bất chợt trông có vẻ trầm tư và u uất, như thể ông đang đăm đăm nhìn qua chúng tới một thời điểm khác. “Nicholas và bác đã lên trên đó cùng nhau một lần nhiều năm trước đây. Ông ấy đã rất xúc động trước khung cảnh đó đến nỗi rơi vào giấc ngủ và gần như ngã lộn qua tường lâu đài. Ôi, bác sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân nếu ông ấy ngã! Bác đang mải ngắm một cái phà dưới dòng sông và không để mắt đến ông ấy. Đáng ra bác nên chú ý hơn.”
“Chuyện gì đã xảy ra ạ?” Constance hỏi, hơi thở gấp gáp hơn một chút, như thể ngay lúc đó ngài Benedict sắp ngã xuống từ vách núi dựng đứng.
“Ông ấy ngã ngửa ra sau. Đơn giản thế thôi. Ông ấy đã bị đụng mạnh vào đầu, nhưng khi bác nghĩ tới khả năng thay thế kia...” Thuyền trưởng Noland rùng mình. “Chỉ thế thôi,” ông nói, bật ngón tay đánh tách, “và bác đáng lẽ đã mất người bạn của mình mãi mãi – không kể đến tất cả những cuộc đời đã được ông ấy cứu năm đó. Và đó sẽ hoàn toàn là lỗi của một mình bác.”
“Bức tường tận cùng phía Tây có gần chỗ ông ngã không?” Reynie hỏi. Cậu có nhiều câu hỏi hay ho muốn hỏi – ví dụ như, chuyện ngài Benedict đang cứu sống những cuộc đời là sao? Thuyền trưởng muốn nói đến mạng sống của những ai? Nhưng việc cấp thiết hơn ngay bây giờ là hiểu rõ manh mối này và bọn họ sẽ làm gì với nó.
“Quả là thế,” thuyền trưởng Noland nói. Ông ngáp dài và chỉ về phía cái rương vẫn được buộc với chiếc giường ở dưới. “Bác không nghĩ có còn lại chút cà phê nào trong ấm đó. Các cháu đã uống hết tối qua rồi à?”
“Chúng cháu, uhm – chúng cháu không thể uống ạ,” Reynie nói. “Chúng cháu bị say sóng ngay sau khi bác rời khỏi.”
Thuyền trưởng Noland luồn qua cậu và mở cái rương ra. “Sao, vẫn còn đến nửa ấm này! May quá!” Ông lau qua cái tách của mình từ tối hôm qua rồi đổ đầy vào nó thứ chất lỏng đen xì phát ngấy kia. Có lẽ vì trời lạnh và để lâu nên hương vị của thứ cà phê đó đã được cải thiện hơn, Reynie thầm nghĩ; chắc chắn không thể khiến nó tệ hơn được nữa. Dù sao ngài thuyền trưởng cũng đã quên mời chúng uống một ít, và bọn chúng thấy vui mừng vì điều đó.
Thuyền trưởng Noland một hớp uống hết nửa tách cà phê, rồi lại đổ đầy nó, sau đó đóng nắp chiếc rương và ngồi lên trên. “Tốt hơn nhiều rồi,” ông nói. “Bác chẳng có ích gì cho các cháu cả nếu bác ngủ. Giờ thì, theo như các chỉ dẫn của Nicholas, tất cả chúng đều có ý nghĩa đối với bác. Mọi chuyện có lẽ sẽ thuận lợi hơn khi chúng ta lên tới lâu đài ấy.”
“Là thế nào vậy ạ?” Reynie hỏi.
“À, như các cháu có thể hình dung, ở lâu đài đó không có cây olive nào cả,” ngài thuyền trưởng nói, “vậy nên Nicholas hẳn phải ám chỉ tới khu vực bên ngoài lâu đài, đó là một nơi khá giống một cái công viên lớn. Bác còn nhớ một bức tường trải dài trên mặt phía tây, nhưng bác chắc chắn các manh mối khác – theo miêu tả ở gần chỗ những cái cây và – sẽ thu hẹp khu vực xuống một cách chính xác. Không nghi ngờ gì việc chúng ta sẽ thấy ngay chỗ ông ấy chôn cái phong bì đó. Chúng ta sẽ tìm một vùng đất mới.”
“Bác nghĩ nó được chôn dưới đất ạ?” Sticky hỏi.
“Chắc chắn đó là điều Nicholas ám chỉ bằng cụm từ ‘không nhìn thấy’ và ‘cần dụng cụ’. Ông ấy ám chỉ cho chúng ta đào nó. Bác sẽ nhờ Joe kiếm một cái xẻng ngay khi chúng ta cập cảng.”
Lũ trẻ nhìn nhau với những biểu cảm nhẹ nhõm và ngạc nhiên.
“Thế đấy, cái đó thật dễ dàng,” Kate nói, đút lá thư vào cái giỏ của mình. “Giờ tất cả những gì chúng ta phải làm là đến đó!”
“Các cháu cứ để việc đó cho bác,” thuyền trưởng Noland nói. “Bác sẽ gọi điện đàm đi trước để đặt một chiếc taxi chờ ở bến cảng. Chúng ta sẽ không phải lãng phí chút thời gian nào. Joe và bác sẽ thay thường phục – tốt hơn hết là tránh bị để ý – và đồng hành với các cháu tới lâu đài.”
“Ý bác là gì khi nói thường phục ạ?” Constance hỏi “Bác không phải một dân thường ạ?”
“Ha!” thuyền trưởng Noland reo lên, gãi gãi râu. “Một thói quen cũ thôi, Constance ạ. Bác ở trong hải quân quá lâu, bác quên là mọi thứ đã thay đổi. Bác chỉ định nói bọn bác sẽ không mặc đồng phục này.”
“Cái đó nhắc cháu nhớ ra,” Kate nói. “Có phải bác nói bác và ngài Benedict gặp nhau trong hải quân không ạ?”
“Đúng thế,” thuyền trưởng Noland đáp. “Bọn bác ở trong cơ quan tình báo của hải quân cùng nhau. Dĩ nhiên, đấy là chuyện rất lâu rồi... Nicholas chưa từng kể cho các cháu à?” Thấy những khuôn mặt ngơ ngác, thuyền trưởng nén cười lắc lắc đầu. “Cái đó không làm bác ngạc nhiên. Ông ấy không thể kể cho các cháu nhiều mà không khoe khoang khoác lác – và Nicholas lại không phải kẻ khoe khoang. Dù vậy, bác rất vui được khoe khoang về ông ấy. Bác từng đùa rằng ông ấy đã cứu cả trăm mạng người mỗi buổi sáng trước bữa ăn sáng, và sự thật cũng không khác là mấy. Chúng ta khi đó đang trong một cuộc chiến khủng khiếp – một cuộc chiến dài đã bị lãng quên nên giờ không có ai thích nói về nó nữa – và Nicholas là người giải mã giỏi nhất của chúng ta. Bất cứ khi nào đường truyền tin của quân địch bị chặn lại, chúng ta lại mang nó đến thẳng chỗ ông ấy. Ông ấy thường giải mã chỉ trong vòng có vài phút, có khi còn nhanh hơn ấy. Binh lính của chúng ta đã tránh được cuộc tấn công bất ngờ đều nhờ có Nicholas.”
Lũ trẻ cười tươi rói, vui sướng được nghe những điều tốt đẹp về ngài Benedict. Trong khi vắng ông, chúng nhận ra là chúng đặc biệt háo hức đón nhận mọi chi tiết liên quan tới ông – như thể bằng việc gom góp những chi tiết đó lại chúng có thể, bằng cách nhỏ bé nào đó, mang ông quay trở lại.
“Không phải bác đã nói ông cũng đã từng cứu sống bác một lần sao?” Reynie hỏi.
Thuyền trưởng Noland uống nốt phần cà phê còn lại trong tách và đứng dậy mở rương ra. Ông lấy ra cái ấm cà phê và lại đổ đầy tách. “Thực ra, Nicholas cứu sống bác hơn một lần cơ. Lần đầu là khi chúng ta đang thực thi một nhiệm vụ bí mật – một nhiệm vụ quan trọng khác thường – ban đầu họ không cử Nicholas đi, ông ấy không bao giờ làm nhiệm vụ bên ngoài. Chứng ngủ rũ có thể khiến ông ấy gặp nguy hiểm, các cháu biết đấy. Thế là, chúng ta xoay sở tìm cách hoàn thành nhiệm vụ ấy, nhưng rồi chúng ta đã bị quân địch bắt. Bác nên nói là bác bị bắt thì đúng hơn. Nicholas thì không. Nhưng để cứu bác, ông ấy đã giao nộp bản thân cho những kẻ bắt giữ bác.”
Thuyền trưởng Noland lại an vị trên cái rương. “Bác chắc các cháu đang nghĩ chính điều bác nghĩ lúc đó. Làm thế quái nào mà ông ấy hy vọng cứu bác bằng cách hy sinh mình chứ? Thế là, đó chính là lúc bác phát hiện ra Nicholas là người đàn ông thuyết phục nhất trên thế giới này. Kỳ diệu vậy đấy. Qua hai ngày kế tiếp, ông ấy nói chuyện với mọi sĩ quan trong trụ sở đầu não của địch. Nếu ông ấy không thể thuyết phục được một sĩ quan tin những gì ông nói, thì ông sẽ đổi chiến thuật, tranh cãi rằng một sĩ quan khác nên được cử đến để nói chuyện với ông. Cách này hay cách khác, ông luôn thành công, đến cuối ngày thứ hai ông ấy đã tìm được những điều đúng đắn cần nói với đúng người, và đã thuyết phục được kẻ địch rằng chúng ta nên được thả đi. Tới hôm nay, bác vẫn không thể tin được điều đó.”
“Thật kinh ngạc,” Kate thốt lên. “Làm sao ông có thể làm được thế nhỉ?”
“Bác không biết chắc nhưng bác nghĩ một phần lời giải đáp là người ta cảm thấy có điều gì đó ở Nicholas khiến họ tin cậy ông ấy. Và dĩ nhiên đó là lý do thật hay. So với Nicholas, ngay cả người đàn ông giỏi nhất cũng không đáng tin cậy.”
Reynie cảm thấy một nỗi nghi ngờ bất chợt nhói lên. Lời cuối cùng này của thuyền trưởng nghe khá giống một lời bào chữa, như thể một người có thể không đáng tin cậy nhưng vẫn có thể được cho là “người đàn ông tốt nhất”. Còn hơn thế là biểu cảm của ngài thuyền trưởng đã thoáng biến đổi tinh vi theo cái cách mà Reynie không thể lý giải được. Có lẽ ông chỉ đơn thuần cảm thấy ghen tỵ với cá tính đáng tin cậy của ngài Benedict – hoặc của những con người sáng suốt am hiểu khác. Đó có thể là một xúc cảm tự nhiên với một người đàn ông tốt mong muốn được tin tưởng hơn. Nhưng ý nghĩ này vẫn khiến Reynie thấy không thoải mái.
Trong khi đó, Sticky đang hỏi thuyền trưởng Noland lần khác nữa ngài Benedict cứu sống thuyền trưởng thế nào. Reynie cố gạt sang một bên những nghi ngờ của mình để lắng nghe. Dù sao thì cậu thật lòng thích thuyền trưởng Noland. Và nếu ngài Benedict tin tưởng ông ấy, không phải Reynie cũng nên thế sao?
“Ồng ấy đã cứu bác một lần nữa bằng cách nói những điều cần nói với đúng người cần biết,” thuyền trưởng Noland nói. “Lần này, người đó chính là bác. Chiến tranh vừa kết thúc và Nicholas sắp rời khỏi hải quân để trở về với công việc nghiên cứu của mình. Bác cũng đang nghĩ đến việc rời khỏi lực lượng hải quân vì một nửa thời gian ở đó bác thấy cực kỳ khổ sở. Bác lớn lên trên những con tàu – bố bác là một thủy thủ buôn bán – nhưng cuối cuộc chiến bác cảm thấy đã để lỡ mất hướng đi của mình. Có cách nào khác để bác giải thích cảm xúc chán nản của mình trong thời gian đó nhỉ?
Khi bác nói với ông ấy điều này, Nicholas cười nhiều đến nỗi ông ấy chìm luôn vào giấc ngủ. Bác có thể nói với các cháu là bác hơi bực bội. Nhưng quả là ông ấy luôn thích cười, khi tỉnh dậy ông ấy chân thành xin lỗi và nói, “Phil, không phải việc ở trên những con tàu khiến cho cậu khốn khổ đâu mà là việc phải xuống khỏi tàu. Cậu luôn buồn bã khi đến cảng, và suốt khoảng thời gian ở trên đất liền – ngoại trừ ngày cậu lại ra khơi một lần nữa. Điều tồi tệ nhất cậu có thể làm là ở lại trên bờ.”
Thế đấy, điều này thật quá rõ ràng đến một đứa trẻ đáng lẽ cũng phải thấy, và bác ghét phải nói, bác gần như bực tức với Nicholas vì đã khiến bác có vẻ quá ngớ ngẩn. Chừng nào còn ở trên biển, bác đều hạnh phúc – đó là lý do vì sao chuyến vượt biển đầu tiên này lại quan trọng đến thế. Bác không thể nào đánh mất danh tiếng của mình với tư cách là một thuyền trưởng được. Việc cho bác lên bờ sẽ đồng nghĩa với việc tuyên án kết thúc số phận của bác.”
“Thế tại sao bác lại rời khỏi hải quân?” Constance hỏi.
“Bác cảm thấy không còn lựa chọn nào khác. Họ đã muốn thăng chức cho bác từ lâu, điều đó dường như thật tử tế cho tới khi cháu nhận ra là việc thăng cấp sẽ là cử bác đến một vị trí cao thoải mái dễ chịu và được tôn trọng – trên đất liền. Thật là cực hình! Bác luôn tìm cách thoái thác nó, nhưng cuối cùng họ khăng khăng làm như vậy. Đó là khi bác rời lực lượng hải quân và ứng tuyển vào vị trí hiện tại, điều đó dường như thật hoàn hảo. Đường Tắt sẽ ở trên biển gần như thường xuyên liên tục – nó chất hàng và dỡ hàng nhanh hơn các con tàu khác, vậy nên sẽ tốn ít thời gian ở cảng hơn – và khi bác kể cho các ông chủ...”
Thuyền trưởng Noland giọng nhỏ dần đi, nhìn ngượng ngùng. “Bác lại nói dòng dài quá về lão thuyền trưởng già tội nghiệp của các cháu rồi. Các cháu muốn nghe kể về Nicholas cơ mà. Một người đàn ông tốt hơn cả mà ta chưa bao giờ biết – và bất chấp tất cả những điều không may hẳn các cháu cũng biết. Mất cha mẹ khi còn quá nhỏ, và rồi đấu tranh dữ dội với căn bệnh ngủ rũ của ông... Bác không định nói chỉ là cái bệnh ngủ gục kỳ quái đó, mà, ừm, là những cơn ác mộng ấy!”
Thuyền trưởng Noland dụi đôi mắt đỏ vằn của ông. Trông như chính ông đã phải chịu đựng một đêm ác mộng tồi tệ. “Nhiều lần Nicholas và bác đã cùng chia sẻ một ca bin,” ông nói, “và tiếng kêu la kinh hoàng ông ấy bật ra trong giấc ngủ cũng đủ khiến bác phải mở mắt chong chong và run rẩy hàng giờ. Ông ấy chịu đựng chuyến viếng thăm của những sinh vật chết chóc hầu như hàng đêm – Mụ Phù Thủy Già, bác còn nhớ, là ảo giác kinh khủng tồi tệ nhất mà bác ghét nghe nói đến – nhưng các cháu sẽ không bao giờ đoán được ông ấy đã phải trải qua những gì trong một ngày. Luôn luôn hăm hở, luôn luôn can đảm kiên cường. Đó là Nicholas. Nhưng ông ấy hy vọng rằng một ngày – đợi đã!”
Thuyền trưởng Noland đột ngột cứng đờ người ông làm đổ cả cà phê vào người mình. “Nghĩ xem!” ông reo lên. “Ồ, đầu óc bác đi đâu rồi? Bác gần như quên mất!” Và vừa nhìn bọn trẻ ông vừa nói, “Thứ lỗi cho bác. Bác không nhận ra mãi cho tới lúc này, nhưng chúng ta có một manh mối khác rồi!”
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét