Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 17

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 17: Đi theo cơn gió

Nếu như lúc trước bọn trẻ đã cho Milligan một trận đau đầu thì điều ông đang trải qua lúc này lại giống như một cơn cảm cúm kết hợp với đau răng, với cái quai hàm khít rịt và chứng quai bị đã quá giới hạn chịu đựng. Nói cách khác, Milligan đang hết sức khổ sở. Không chỉ vì lũ trẻ không vâng lời ông, mà chúng còn tiếp tục làm thế khi thấy đó là điều cần thiết.
Milligan hẳn đã thất bại. Ông không có mấy kinh nghiệm của một người cha, càng ít kinh nghiệm là bảo mẫu cho lũ trẻ không phải con mình, và bây giờ ông nhận thấy bản thân thiếu sót một cách trầm trọng những kỹ năng cần thiết. Công bằng mà nói, không có nhiều bậc cha mẹ biết cần phải làm gì. Không phải trong hoàn cảnh này, cũng không phải với lũ trẻ này.
Sau khi chúng kể cho ông nghe những gì được biết từ Risker (tên này đã không lãng phí thời gian mà hướng thẳng về nhà để kiếm một bữa ăn nóng hổi và quần áo khô ráo), Milligan nói ông sẽ sắp xếp cho chúng an toàn trở về Thành phố Đá. Ông nói sẽ tiếp tục một mình đến hòn đảo kia. Nhưng bọn trẻ cứ tranh cãi suốt. Chúng không ngừng tranh luận với nhau.
Và rắc rối là, ông nghĩ chúng có lý. Là một đội, chúng có thể có ưu thế tốt hơn Milligan trong việc giải quyết bất cứ câu đố và manh mối nào ngài Benedict để lại - và ai biết được liệu còn bao nhiêu manh mối nữa? - đặc biệt là khi ngài Benedict tạo ra những câu đố đó theo tư duy riêng của lũ trẻ.
“Nếu bố không mang chúng con cùng đi,” Kate thao thao bất tuyệt, “chúng con sẽ tìm cách bám theo bố tới đó. Đứng từ quan điểm của một ông bố, việc tốt nhất là giữ chúng con gần bên để bố có thể bảo vệ chúng con.”
Milligan nhắm mắt và tự cốc đầu vào tường căn nhà thuyền.
“Không phải chúng cháu muốn đối đầu với những Số Mười,” Reynie hấp tấp nhắc ông nhớ. “Càng không phải lão Curtain. Cháu sẽ rất hạnh phúc nếu không bao giờ phải thấy người đàn ông đó lần nữa. Tụi cháu chỉ muốn chắc chắn chú có thể giải cứu cho ngài Benedict và Số Hai trước khi quá muộn thôi.”
“Vào ngày mai...,” Sticky nhắc nhở. “Ngày mai là quá muộn rồi.”
“Làm ơn đi, chú Milligan,” Constance nói, cô nhóc này hiếm khi nào nói từ “làm ơn” đến nỗi Milligan cảm thấy rất bất ngờ khi nghe được từ miệng cô bé. “Chú làm ơn cho chúng cháu đi cùng. Chúng cháu chính là cơ hội tốt nhất của họ!”
“Nhưng bây giờ làm sao ta có thể tin tưởng các con đây?” Milligan nói, bực tức. “Làm sao ta biết được các con có làm đúng theo những gì ta nói hay không? Cách duy nhất và cũng là điều ta phải làm là giữ cho các con được an toàn. Không chỉ riêng Kate mà là tất cả các con.”
“Tụi cháu hứa danh dự đấy,” Reynie nói. “Nếu chú để bọn cháu đến đó, bọn cháu hứa sẽ hoàn toàn nghe lời chú.” Cậu nhìn những đứa còn lại. “Phải thế không? Chúng ta nhất định sẽ nghe lời.”
“Miễn là bố hứa không đuổi bọn con,” Kate nói với bố Milligan. “Nếu không có nguy hiểm trực tiếp nào và chúng con có thể giúp bố, thì bố phải để chúng con làm. Nếu bố hứa như thế, chúng con hứa sẽ nghe lời bố”
“Bất cứ chuyện gì ư?” Milligan ngờ vực hỏi.
“Bất cứ chuyện gì,” lũ trẻ đồng thanh nói.
Milligan ngắm nhìn kỹ càng gương mặt mỗi đứa. “Nếu ta bảo các con ngừng lại mọi việc đang làm để phục xuống đất giả vờ là lợn thì sao?”
“Thế thì bọn cháu sẽ đào bới ấu trùng,” Reynie nói.
“Chúng cháu kêu ủn ỉn và phát ra mùi thật kinh,” Constance nói.
“Ý chú là lợn hoang hay lợn nuôi ạ?” Sticky hỏi. “Bởi vì, chú biết đấy, hành vi tập tính của chúng rất là...”. Tiếng cậu trượt dài rồi chìm xuống. Milligan chằm chằm nhìn cậu gay gắt. Sticky húng hắng trong họng. “Cháu sẽ không hỏi câu hỏi kia nữa. Vì cháu còn đang bận khụt khịt mũi.”
Milligan tiếp tục nhìn khắp lượt bọn trẻ, chăm chăm nhìn vào mắt từng đứa, cho tới khi cảm thấy chắc chắn chúng thật sự cam kết vâng lời ông. “Hứa đi.”
“Chúng con hứa,” bọn trẻ đồng thanh nói.
Milligan bỏ mũ xuống gãi gãi đầu. Ông cảm thấy không hiểu sao sẽ thật sai lầm nếu đồng ý, nhưng ông cũng nghi ngờ là nếu mình không đồng ý thì vẫn cảm thấy như thế thôi. Và đúng như Kate đã nói, ít nhất bằng cách này ông có thể để mắt trông chừng chúng.
“Được rồi, ta cũng hứa,” Milligan vừa nói vừa đội lại mũ. “Vậy chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa. Ta cần gọi mấy cuộc điện thoại và tìm phương tiện di chuyển. Ngồi yên đấy, mấy đứa, ta sẽ quay lại nhanh thôi.”
“Phương tiện” của họ hóa ra là một chiếc thủy phi cơ màu bạc sáng loáng. Bọn trẻ vốn mong chờ một con thuyền nên khá bất ngờ khi chiếc máy bay nhẹ lướt ngang qua bến cảng có chú Milligan ngổi ở vị trí điều khiển. Nhất là khi ánh mặt trời chói lóa, chiếu rọi trên đôi cánh máy bay khiến cả bọn phải vội đưa tay che mắt. (Constance đã đúng, không hề có mưa rào, những đám mây bị đẩy đi khiến bầu trời trở nên quang đãng.) Milligan cho máy bay rẽ vào phút cuối khiến cái đuôi của nó lắc lư một vòng, cánh quạt của nó đối diện với bến cảng, chân phao bên trái nhẹ nhàng thúc vào cầu tàu. Ông mở rộng cửa và hét gọi chúng nhảy vào.
“Một chiếc máy bay ư?” Kate nói trong khi đang đu người bò lên sàn khoang máy bay, hai mắt long lanh vui sướng. “Bố kiếm cho chúng ta một cái máy bay à?”
“Thế con hy vọng cưỡi ngựa à?” Milligan hỏi. “Nơi đó là một hòn đảo, con biết mà.”
Những đứa còn lại trèo vào khoang và cài dây an toàn. Milligan kiểm tra bảng điều khiển, chắc chắn rằng bọn trẻ đã thắt dây an toàn, rồi lái thủy phi cơ ra khỏi bến cảng, một đoàn ngư dân vẫy tay chào họ khi chiếc máy bay lao qua. Reynie thấy họ qua cửa sổ, nhưng cậu không thể vẫy tay đáp lại; hai bàn tay cậu đang siết chặt lấy thành ghế ngồi và dường như không thể nới lỏng ra. Cậu chưa từng đi máy bay. Cả Sticky cũng thế, cậu chàng lau lau cặp kính bằng mấy ngón tay vã mồ hôi trơn trượt của mình, hay Constance, hai mắt cô nhắm nghiền lại. Chỉ có Kate là đang cố xoay sở vẫy tay với những ngư dân kia (và cô làm chuyện đó bằng cả hai tay, cố gắng bù đắp cho lũ bạn của mình). Cuối cùng máy bay tăng tốc, cùng với một cú lắc khiến ruột gan chúng nhộn nhạo cả lên, nó cất cánh rời khỏi mặt nước rồi bay vào không trung. Bọn họ bay lên và đi mất.
Chẳng mấy chốc sau khi họ cất cánh, chuyển động rung của máy bay làm Constance chìm vào giấc ngủ. Nhưng mấy đứa kia thì vẫn thức, chúng ép chú Milligan trả lời loạt câu hỏi: Làm thế quái nào mà ông lại kiếm được một chiếc máy bay nhanh đến thế? Ông đã gọi điện thoại cho ai? Có phải một trong số đó là cho Rhonda không? Còn ai khác nữa? Và tại sao ông phải biến mất để gọi những cuộc điện thoại đó? Chẳng lẽ bọn trẻ không nên biết những chuyện đó? Và sẽ không phải... ?
Milligan chọn cách không trả lời hầu hết các câu hỏi của chúng (bằng việc trả lời một đứa về việc liệu chúng có nên biết nhiều hơn không), nhưng ông nói rằng đã gọi cho Rhonda và nói qua với cô ấy rằng lũ trẻ vẫn khỏe. Thế nên, Milligan có thể khẳng định rằng ông bà Washington, cô Perumal và mẹ của cô đang trong tình trạng gần như hoảng loạn từ khi lũ trẻ lẻn trốn đi. Và thực tế là, chúng sẽ gặp rắc rối lớn khi trở về nhà - rắc rối bự tổ chảng, nhưng cũng không là gì so với nguy hiểm mà họ có thể phải đối mặt trên hòn đảo kia, nên ông đề nghị chúng tập trung vào việc sống sót qua hai mươi tư tiếng đồng hồ tới đây.
“Nói đến chuyện này,” Milligan vừa nói vừa kiểm tra đồng hồ đeo tay, còn hơn ba tiếng nữa chúng ta sẽ tới đó.”
Reynie biết một ít về địa lý và đã xem bản đồ của Risker, nên cậu biết đích đến của họ nằm trong vùng biển Bắc, không xa bờ biển Scotland là bao. Còn Sticky biết rõ hơn rằng hòn đảo đang đi đến này không có tên trên các bản đồ mà cậu từng thấy trong khu vực này (thực tế là nó hiếm khi xuất hiện trên bản đồ) và chưa bao giờ được chú ý trong bất cứ vụ tranh chấp lãnh thổ nào. Đối với cả thế giới, hòn đảo này chả có gì quan trọng cả, nhưng với Milligan và bọn trẻ thì giờ đây nó là nơi quan trọng nhất trên trái đất này.
Suốt một lúc lâu trên máy bay, mọi người đều im lặng, đắm chìm trong suy tư. Có quá nhiều chuyện đã xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn nên họ không có mấy dịp để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì. Chẳng hạn Reynie đang lần lượt ngẫm lại các sự kiện trong mấy ngày qua, cố gắng nghĩ xem có điều gì đã bị lướt qua không. Cuối cùng sau hơn một giờ trôi qua, cậu đã nghĩ ra điều gì đó - một câu hỏi hiển nhiên mà cậu đã lơ là không hỏi.
“Chú Milligan,” Reynie nói, “chú có nghĩ ra người mà ngài Benedict nhắc đến không? Ý cháu là người được cho là biết về loài cỏ đêm ấy? Cháu không thể nghĩ ra bất cứ ai thân cận với ngài Benedict hơn Rhonda hay Số Hai, nhưng không ai trong bọn họ biết cả, và chú cũng nói là không biết - vậy người đó có thể là ai? Chú có nghĩ đó là một trò lừa không?”
“Chú không biết đó có thể là ai,” Milligan đáp, ‘nhưng chú tin người đó có tồn tại. Trong thư lão Curtain khẳng định ngài Benedict đang nói thật. À, chú biết điều gì không? Một nhóm những Gã Số Mười gần đây đã đột nhập vào một phòng thí nghiệm và đánh cắp một hợp chất hóa học - một loại hóa chất Sự Thật mới. Nó chỉ có vài liều thôi, nhưng chú chắc chắn lão Curtain đã dùng ít nhất một trong số đó với ngài Benedict.”
“Nếu đó là sự thật thì tại sao ngài Beneđict không cung cấp thẳng thông tin ra?” Sticky hỏi. “Tại sao lại có vụ việc bí ẩn này về cái người ‘cực kỳ thân cận’ với ông ấy?”
“Hóa chất Sự Thật là một trò lừa đảo. Chỉ cần một giọt là khiến cháu trả lời thành thật các câu hỏi, nhưng nó chỉ có hiệu quả trong một phút. Với một người đủ sáng suốt như ngài Benedict, ông ấy có thể dự liệu trước các câu hỏi và nghĩ ra câu đối đáp về cơ bản là thật nhưng lại quá mức mập mờ để hiểu được ý nghĩa. Chú nghĩ đây là lý do lão Curtain giữ ngài Benedict và Số Hai để đòi chuộc người. Hợp chất mà hắn được cung cấp quá ít nên hắn đang thử một chiến thuật khác.”
“Vậy nếu như...?” Kate bắt đầu nói.
Milligan ngắt lời cô con gái. “Nghe này, tất cả các con, ta không thể trả lời thêm câu hỏi nào nữa lúc này. Nếu các con muốn nói chuyện, hãy tự nói với nhau đi. Có vẻ như có chút trục trặc máy móc với chiếc máy bay này. Không có gì nghiêm trọng nhưng ta cần phải tập trung giải quyết.”
“Ôi trời!” Kate thốt lên, thở hắt ra một hơi. Cô bé quay sang phía lũ con trai. “Được rồi, tớ cho là chúng ta - này, có chuyện gì với hai cậu thế?”
“Một... một... vấn đề,” Sticky lắp bắp, đôi môi mấp máy. “Chú ấy nói... có một... vấn đề...”
Kate đảo mắt. “Bình tĩnh đi. Bố tớ chỉ đang cố khiến chúng ta bớt hỏi han thôi. Rõ ràng có điều gì đấy ông không muốn chúng mình biết. Điều cần làm bây giờ là chúng mình hãy nghĩ về manh mối của ngài Benedict đi. Các cậu cho rằng ‘đi theo cơn gió’ có nghĩa là gì?”
“Một trục trặc máy móc,” Reynie hai tay ôm đầu, thốt lên.
“Với chiếc máy bay...” Sticky nói thêm.
“Thôi ngay đi!” Kate quát, cô quấy nhiễu hai cậu bạn một cách tàn nhẫn cho tới khi chúng buộc phải trò chuyện với cô, dù vẫn tiếp tục quan sát nét mặt Milligan xem có dấu hiệu căng thẳng nào không. (Song Milligan dường như chằng lo gì cả, với gương mặt giống như tượng nhân sư bí hiểm trong cơn khủng khoảng, ông có thể biểu hiện vẻ ngoài không hề lo lắng ngay cả khi chiếc máy bay có rơi xuống đất.)
“Đi theo cơn gió,” Kate lặp lại khi các bạn đã tập trung chú ý tới cô. “Các cậu nghĩ nó có nghĩa gì? Ông nghĩ đến ngọn gió nào? Và đi theo nó tới đâu?”
“Nó có thể không phải là một cơn gió thực sự,” Reynie chỉ ra. “Mà chỉ là biểu tượng nào đó thôi.”
“Tối thiểu thì” Sticky nói, “chúng mình cũng biết nên đi về hướng đông.”
Kate, Reynie và chú Milligan đang ngồi trên ghế lái, cũng vểnh tai lên nghe.
“Tớ chưa nói với các cậu à?” Sticky tiếp tục nói khi thấy nét mặt kinh ngạc của mấy đứa bạn. “Không, tớ nghĩ là chưa. Xin lỗi, bọn mình bận quá.”
“Nói gì với bọn tớ cơ?” Kate hỏi.
“Bức thư của Han de Reizeger nói rằng trên hòn đảo này có một cơn gió mạnh thổi từ hướng tây suốt từ bình minh cho tới hoàng hôn mỗi ngày. Dân làng nói với ông ấy nó thường xuyên thổi theo hướng đó. Đó là một hiện tượng gây hiếu kỳ. Ông ấy đã tự nghiên cứu nó là một sự kết hợp của các luồng thủy triều và hoạt động của luồng khí nóng bên dưới hòn đảo, mặc dù cá nhân tớ còn nghi ngờ điều đó “
“Cậu vừa nói ‘dân làng’?” Reynie ngắt lời, nhớ ra tại sao Sticky thường trích dẫn sự việc tốt hơn là tóm tắt chúng. Với quá nhiều điều để chọn lọc, Sticky đôi khi thường không nhận ra được tầm quan trọng của một chi tiết cụ thể.
Lần này Sticky đã bỏ qua nhiều thứ. Phải, từng có một ngồi làng trên hòn đảo đó, ông ấy đã nói thế, dù vào thời Han de Reizeger viết lá thư này các cư dân ở đó đang biến mất nhanh chóng. Dân làng đang rời bỏ cái nơi cô lập quanh năm gió thổi đáng nguyền rủa đó để đến với những thứ tiện nghi (điện và hệ thống nước chẳng hạn) trên đất liền. Han đã tiên đoán rằng trong vòng vài năm hòn đảo sẽ chỉ còn là nhà của dê núi và chim nhạn núi.
“Vậy nghe có vẻ như ở đó có núi,” Reynie nhận xét.
“Làm sao cậu biết điều đó?” Kate nói, rồi đỏ mặt và cười to. “Ồ, phải rồi. Dê núi. Chim nhạn núi. Nghe đã thấy một vẻ đẹp hoàn hảo rồi.”
Hai giờ sau họ đã thấy hòn đảo - một mảng đất lớn, thuôn thuôn nằm giữa một vùng nước mênh mông. Từ xa đã có thể thấy rõ hai diện mạo, vì ánh mặt trời chiều đã lặn nên một nửa phía tây nhuộm đầy ráng vàng, song rặng núi nhỏ ở trung tâm lại chắn ánh mặt trời cho một nửa phía đông, khiến phần này có vẻ như tối mù đi. Những ngọn núi thấp - chính xác là có ba ngọn - chạy từ phía nam lên phía bắc nằm chính giữa hòn đảo, lưa thưa rải rác cây xanh mọc trên đó. Từ trên cao, họ thấy hòn đảo trông như một con quái thú khổng lồ bí hiểm, đầu và đuôi bị nhấn chìm trong nước, còn cái lưng đầy gai thì phủ toàn rêu.
Để tránh bị để ý, Milligan đã tiếp cận nó từ một khoảng cách khá xa như thể chiếc máy bay chỉ bay ngang qua hòn đảo, ông và Kate dùng ống nhòm của mình để thăm dò địa hình, địa vật, trong khi mấy đứa còn lại thì nghển cổ, vẹo đầu cố xem hết mức có thể. Băng qua vài dặm, có lẽ là dài gấp đôi thế, hòn đảo hiện lên với rất nhiều cảnh đẹp phong phú, sẽ rất tuyệt cho việc dạy địa lý. Phía Tây dãy núi chia thành ba khu vực rõ rệt: tây nam là đồng cỏ; tây bắc là khu vực của cây bụi; và giữa hai khu là một vành đai rừng cây chạy dọc theo bờ biển phía tây. Phần đông dãy núi, hòn đảo gần như chỉ toàn núi đá đen gồ ghề, ngoại trừ một ít rừng chạy men theo đường bờ biển của một vịnh lớn phía đông nam.
Thật không may, ngay cả dùng ống nhòm, Kate và Milligan cũng không quan sát được gì hơn mấy đặc điểm địa lý trên. Không có chuyển động nào, không có thuyền trên biển, cũng không có dấu hiệu lều trại ở bất cứ đâu (họ tìm kiếm trong vô vọng những đám khói lửa của lều trại). Và mặc dù rất dễ phát hiện ra ngôi làng bị bỏ hoang nằm ngay ở phía tây dãy núi, bên rìa khu rừng nhưng cũng không có gì cho thấy có hoạt động của con người thời gian gần đây. Mặc dù vậy, mọi người trên máy bay đều có một dự cảm mãnh liệt rằng có thứ gì đó dưới hòn đảo kia - đây chính là nơi mà hành trình của họ, dù tốt hay xấu, cũng sẽ đi tới hồi kết.
“Cái vịnh biển phía đông nam kia chắc chắn là nơi Risker đã thả họ lên bờ,” Kate nói. “Nó trông giống hệt như ông ta vẽ trên bản đồ.”
“Đó chính là nơi chúng ta hướng tới đấy,” Milligan đáp, vừa nói vừa điều khiển máy bay rẽ xuống. “Dù thế nào đi nữa đó là vị trí tốt duy nhất để máy bay hạ cánh. Giờ thì mọi người giữ tay chắc nhé. Ta sẽ hạ thấp thật nhanh để giảm thiểu khả năng bị phát hiện.”
Khi chú nói “hạ thấp thật nhanh”, Reynie nói, “Cái gì cơ ạ!”
Đột nhiên máy bay lao thẳng xuống với vận tốc cực nhanh, tạo một góc thẳng đứng khiến lũ trẻ cảm thấy như thể chúng vừa đi qua một thác nước. Reynie tin Milligan đã mất lái; tim cậu như muốn nhảy vọt lên cổ họng, cậu lo lắng liệu máy bay có vỡ tan tành thành từng mảnh trên mặt nước hay đâm thẳng xuống đáy vịnh. Nhưng thật tự nhiên, nó hạ thấp nhanh nên kết thúc cũng nhanh - cách này hay cách khác - chỉ một thoáng sau những cái chân phao của thủy phi cơ đã đang lướt là là trên mặt nước.
Milligan đã cho máy bay hạ xuống cửa vịnh, đi giữa hai đồi đá thấp ở hai bên và hướng vào bờ biển phía trong của vịnh. Đường bờ biển ở đó được bao quanh bởi rừng cây - chính là rìa khu rừng nhỏ mà họ nhìn thấy từ trên cao và khi máy bay tiến đến gần hơn, Milligan lại dùng ống nhòm rà soát một lượt khu rừng. Việc tiếp cận mất chút thời gian vì gió thổi ngược chiều và biển động, đến khi máy bay lướt vào vùng nước nông và một phần đã chạy lên bờ biển, Milligan hài lòng vì không có cuộc phục kích nào đợi họ. Ngoài vài con chim, bọ cánh cứng và loài gặm nhấm, còn lại thì khu rừng trống không.
“Mọi người ra ngoài đi,” ông ra lệnh. “Nhanh lên ngay bây giờ.”
Kate đánh thức Constance, cô nhóc nhìn chằm chằm vào bờ biển đầy vách đá và rừng cây với vẻ kinh ngạc đến mức đứng không vững (với cô bé nó dường như cảng biển Thernbaakagen đã được biến hóa một cách đầy ma quái), và lũ trẻ bò ra khỏi máy bay lao vào cơn gió lạnh buốt. Milligan đã ra ngoài, đang chằng sợi cáp quanh vào một bên cánh máy bay bằng những động tác chắc chắn, nhanh nhẹn, rồi vội vàng đi đến cái cây gần nhất. Sau khi lắp đặt xong một cái ròng rọc và cái tời, ông dùng những thứ này bắt đầu kéo chiếc thủy phi cơ lên bờ biển. Ông chỉ kéo vài mét là nó đã tiến vào nằm dưới bóng râm của rừng cây.
Khu rừng không thiếu bóng râm. Khi mặt trời dần khuất sau dãy núi, phần bên này của hòn đảo chìm trong bóng tối nhập nhoạng, và trời càng lúc càng tối nhanh. Trong rừng không khí thậm chí còn âm u và quỷ dị hơn thế.
“Có phải con ngửi thấy mùi khí ga không nhỉ?” Kate nói, hai lỗ mũi hít ngửi phập phồng. Lúc cô bé nói, mấy đứa còn lại cũng bắt đầu ngửi thấy mùi khí ga. Thấy Milligan không trả lời, mấy đứa liển nhìn nhau vẻ lo lắng.
“Ý cậu là có điều gì không ổn với chiếc máy bay hả?” Sticky hỏi, cậu hy vọng Kate đã đúng khi nghĩ Milligan chỉ cố khiến chúng im lặng thôi.
“Không vấn đề gì,” Milligan cố gắng làu bàu đáp. Ông quệt mồ hôi khỏi chảy vào mắt và tiếp tục công việc với cái tời kéo. “Chúng ta sẽ không rời đi bằng máy bay. Giờ điều quan trọng là giấu nó khỏi bị phát hiện.” Ông trở vào trong máy bay và đi ra cầm theo một tấm vải bạt lớn có nền hoa văn được ngụy trang.
“Có phải chú bảo chúng ta sẽ không rời khỏi đầy bằng máy bay không ạ?” Reynie hỏi.
“Giờ các con cần phải bớt thắc mắc đi,” Milligan nói, tay giở cuộn vải bạt.
“Nhưng chúng ta làm thế nào rời khỏi đảo này được?” Constance hỏi.
Milligan cau mày. “Ta đã nói các con cần phải bớt thắc mắc này nọ đi cơ mà. Hãy nhớ lời hứa của các con đấy.”
“Về cơ bản chú không yêu cầu bọn cháu ngừng lại;” Reynie phản bác, rồi vội nói thêm, “và trước khi chú làm thế, chú nên cân nhắc xem chú đã khiến bọn cháu lo lắng thế nào bằng việc không chịu nói cho chúng cháu biết điều chú làm. Bọn cháu khó lòng mà nghĩ đến điều gì khác được, chú biết đấy.”
Ban đầu Milligan không đáp lại. Ông trèo lên kéo tấm vải bạt phủ qua máy bay, rồi buộc nó cẩn thận vào tất cả các mặt để gió bão không cuốn nó rơi xuống. Nhìn từ xa nó như lẫn vào nền rừng cây và vách đá. Milligan đi đến đứng trước mặt lũ trẻ lần nữa. “Nghe ta nói đây, mấy đứa. Các con không cần lo lắng về việc rời khỏi đảo. Ta đã có các sắp xếp khác. Ngay khi chúng ta biết được chỗ lão Curtain giữ những người bạn của chúng ta, ta sẽ gửi các con đi. Giờ thì làm ơn đừng có hỏi thêm bất kỳ câu hỏi nào nữa. Đó là mệnh lệnh trực tiếp đấy.”
“Chúng cháu có thể hỏi tại sao bọn cháu không được hỏi thêm câu nào nữa về chuyện đó không?” Constance hỏi. “Bởi vì đó dường như chính là phần cháu không hiểu rõ.”
Milligan nhăn nhó, bỏ mũ ra gãi gãi đầu. Ông lấy làm ghét cái điều ông sấp nói và đã hy vọng có thể tránh không phải nói ra. “Bởi vì, Constance ạ, trong trường hợp tồi tệ nhất - ý ta là nếu các con bị bắt - các con biết càng ít thì càng tốt. Curtain chắc chắn sẽ không khai thác được từ các con bất cứ điều gì các con đang cố giấu giếm. Vì thế ta thích giới hạn các bí mật với các con hơn.”
“Ồ,” Constance thốt lên, mắt mở lớn.
“Ta không muốn để chuyện đó xảy ra,” Milligan vội nói. “Ta chỉ đang đề phòng vậy thôi.”
“Chú Milligan,” Reynie nói, “cháu có thể hỏi có phải những sắp xếp này là...?”
“Liên quan tới chính phủ ư?” Milligan nói nốt hộ cậu, đoán trước được chính xác điều Reynie lo lắng. “Không, không liên quan. Ta chỉ tranh thủ sự trợ giúp của vài người bạn riêng thôi. Nếu Curtain cài gián điệp trong chính phủ - mà ta nghĩ tốt nhất là nên giả định là lão có làm - thì họ cũng không biết được chuyện gì cả. Không có gì rõ ràng cả, nhưng ta hứa là đã làm mọi điều có thể để tránh cho hắn bứt dây động rừng. Con biết rồi đấy, Reynie, con có thể tin tưởng ta.”
“Con tin tưởng chú mà,” Reynie đáp, điều đó hoàn toàn là sự thật. Milligan là một trong số ít người cậu tin tưởng.
“Được rồi,” Milligan vừa nói vừa vỗ chiếc mũ chụp lên đầu. “Việc cần làm là chúng ta phải xem xét nên đi theo cơn gió nào. Chúng ta không thể mong đi theo hướng đông, như Sticky đã gợi ý. Điều đó chỉ dẫn chúng ta ra biển thôi.”
Sticky trông có vẻ thất vọng. “À... có lẽ chúng ta được trông chờ là đi ngược chiều gió thay vì đi xuôi chiều.”
Mọi người im lặng suy nghĩ về manh mối vừa có. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đến đây, không có ai nói chuyện hay (trong trường hợp của Milligan) làm việc gì, họ chỉ đứng đó và từ từ cảm nhận những âm thanh vọng lại từ hòn đảo: gió thổi phẩn phật qua mép tấm vải bạt của Milligan, các cành lá rừng cây im lìm, những thân cây than vãn kẽo kẹt khi đung đưa, bầy chim hót líu lo khi về tổ lúc trời tối hay tiếng sóng vỗ bờ trên vịnh biển ...
Từ nơi nào đó trong khu rừng, một âm thanh leng keng không lẫn đi đâu được vẳng ra, nghe như từ một chiếc chuông.
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét