Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 18

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 18: Trời tối trước khi mặt trời lặn

Cách đó một quãng ngắn, họ tìm thấy chiếc chuông gió treo trên một cành cây thấp trong rừng. Nó được làm từ những miếng kim loại mỏng, hình thoi được sơn vẽ các cạnh, theo lời Milligan, nó sắc đến nỗi có thể khiến ta đứt tay trong chớp mắt. Họ không thấy dấu hiệu của manh mối nào trên cái cây treo nó, cũng không có dấu vết nào trên mặt đất bên dưới cả. Reynie nghĩ chắc phải có gì đó được giấu trên lớp sơn vẽ của chiếc chuông - thoạt nhìn có vẻ lộn xộn, tùy tiện, không có đường thẳng liên kết và toàn những đường ngoằn ngoèo - nhưng khi Milligan lấy các mảnh chuông gió xuống và đặt chúng lên mặt đất để kiểm tra thì mọi người đột nhiên nghe thấy một tiếng leng keng khác ở xa.
“Một cái chuông gió khác à?” Sticky hỏi.
“Đúng thế đấy!” Reynie thốt lên. “Hạ cái chuông này xuống rồi, chúng ta mới có thể nghe thấy cái kế tiếp - chiếc chuông đó dường như cách khá xa đây. Ngài Benedict đã để lại âm thanh này làm dấu vết cho chúng ta!”
Kate nhìn đăm đăm về phía trước. “Thế thì hành động thôi nào. Ai mà biết còn có bao nhiêu chiếc chuông nữa?”
“Đợi đã nào!” Constance nói rồi cúi người nhìn kỹ hơn các mảnh chuông. “Hãy khám phá cái này trước đã.”
“Không có thời gian nữa đâu” Reynie nói. “Cơn gió sẽ lặng đi vào lúc mặt trời lặn, anh nghi ngờ là ngoài nó ra, chúng ta có thể tìm được những cái chuông khác. Rất khó có thể nhìn thấy trong rừng vì trời đang càng lúc càng tối.
Constance quắc mắt nhìn cậu. “Ai nói cơn gió sẽ lặng vào lúc mặt trời lặn?”
“Han de Reizeger. Sticky đã kể với bọn anh khi em ngủ.”
“Thế thì, điều đó thật ngu ngốc! Bất cứ ai cũng nghe thấy tiếng một cái... ?”
Milligan khum tay cầm lấy các mảnh chuông bằng một bàn tay còn Constance thì ở tay còn lại. “Ngu ngốc hay không thì chúng ta cũng cần khẩn trương lên.”
Constance, vừa bối rối vừa bực bội, nhìn quanh cánh rừng âm u. “Nhưng không phải mặt trời đã lặn rồi à?
“Đó chỉ là có vẻ thế thôi bởi vì dãy núi ấy,” Milligan nói, chân bước về hướng có âm thanh leng keng. “Phía tây sườn núi trời vẫn còn sáng - mặc dù cũng không lâu nữa đâu.”
“Trời tối trước khi mặt trời lặn,” Constance lẩm bẩm. “Thật kỳ cục.”
Khi đi ngược chiều gió, họ tìm thấy chiếc chuông gió thứ hai và thứ ba cách đó năm mươi mét. Họ có vẻ như đã đến bìa rừng và đây chắc đã là chiếc cuối cùng vì sau đó họ không nghe thấy gì nữa. Khi Milligan trèo lên một cái cây để quan sát tốt hơn địa hình phía trước, thì bọn trẻ tháo rời các mảnh chuông ra khỏi sợi dây thép buộc giữ chúng và đặt xuống đất. Ba mươi mảnh hình thoi có một kích thước nhất định, mỗi mảnh được vẽ những hình thù khác nhau.
“Tớ nhận ra những cái này là gì rồi.” Kate nói.
“Một trò chơi ghép hình,”Reynie gật đầu nói. “Làm thành một hình ghép cuối cùng.”
Kate lật các mảnh kim loại lên. “Dù vậy, nó khá phức tạp đấy. Hình vẽ có cả ở hai mặt, các cạnh đều trông giống y nhau, và chúng ta không biết bức hình này là vẽ cái gì. Chuyện này có thể mất hàng giờ đồng hồ!”
Constance bước tới gần, chăm chú nhìn vào các mảnh ghép. “Lật cái đó lên, chị Kate,” cô bé vừa nói vừa đưa tay chỉ. “Không, cái kia cơ, cái kia, gần bên góc ấy. Không, cái khác cơ, ôi trời ơi! Đây, để em.” Cô nhóc quỳ gối và lật lên vài mảnh. “Đó. Thế mới đúng chứ! Đó là cách duy nhất chị có thể nhìn thấy tấm bản đồ đó hiện ra.”
Những đứa còn lại nhìn Constance chằm chằm, rồi lại nhìn những mảnh kim loại la liệt trên mặt đất. Tấm bản đồ mà Constance nhìn thấy lại chỉ là một mớ lộn xộn rối rắm các đường thẳng và màu sắc đối với những đứa khác.
Reynie ngổi xồm xuống cạnh cô bé. “Constance, bọn anh không thể nhìn ra nó được” cậu nói, cố gắng giữ gương mặt thoải mái. “Em có thể sắp xếp lại các mảnh ghép cho bọn anh không?”
Đôi mắt của Constance tròn xoe nhìn họ. “Ý anh em là người duy nhất... ?”
“Ổ, thật sự không ai trong bọn anh có thể nhìn ra nó cả,” Reynie nói, phẩy tay về phía các mảnh ghép, “nhưng sẽ hiểu nhanh hơn nếu em làm thế. Em thấy sao?”
Constance nhìn thấu nỗ lực của Reynie trong việc làm cho cô bé khỏi cảm thấy sức ép, nhưng cử chỉ tự tin, thoải mái của cậu lại có vẻ như đang cố giữ bình tĩnh. Cô bé nuốt khan. “Em... vâng, được ạ. Em sẽ sắp xếp.” Lóng nga lóng ngóng, cô bé vừa cầm lên một mảnh kim loại thì ngay lập tức làm rớt nó. Cũng chính các ngón tay vụng về không thể thắt nơ dây buộc giày ấy giờ đây đang phải thực hiện một bài kiểm tra vô cùng quan trọng, sự căng thẳng, lo lắng khiến đôi tay cô bé càng thêm run rẩy.
“Chỉ cần bình tĩnh thôi mà,” Reynie nói. “Hãy thư giãn đi. Tuy nhiên, dù em có mất thời gian lâu cũng vẫn là nhanh hơn bọn anh có thể xoay sở.”
Constance hít vào một hơi vẫn chưa thấy hết run, những ngón tay lóng ngóng vật lộn với việc sắp xếp các bức hình mà cô bé hình dung thật rõ trong tâm thức.
Trong khoảng thời gian đó, Milligan đã leo xuống cây và đi bộ ra khỏi bìa rừng để kiểm tra thứ gì đó trên mặt đất. Kate cũng đi qua đó với ông. Rừng cây mở ra một núi đá đen gồ ghề - xa xa, khoảng chừng một dặm, lờ mờ những dãy núi cao. “Mặt đất hầu như quá cứng nên không thể lưu lại dấu vết,” Milligan nói khi Kate quỳ xuống cạnh ông. “Ngoại trừ chỗ này.” Ông ra dấu chỉ về một khoảng đất sỏi rộng có vài vệt lốp nặng nề in hằn lên đó.
“Cái gì thế ạ, xe ủi đất ạ?” Kate hỏi, thắc mắc làm sao một cái xe ủi đất - bất luận là loại nào - lại có thể đến được đây.
“Một phương tiện di chuyển có thể lội nước,” Milligan nói. “Bố hiểu được đây là lý do vì sao chúng ta không trông thấy một con thuyền nào. Lão Curtain có một chiếc Salamander.”
“Một gì cơ ạ?”
“Hãy hình dung một chiếc thuyền bọc thép với những xích xe tăng. Đi nhanh trên đất bằng, thậm chí càng nhanh hơn khi ở dưới nước. Đủ lớn để chở Curtain và toàn bộ đội ngũ những Gã Số Mười, với rất nhiều khoảng trống để giam giữ tù nhân.”
Kate kinh ngạc khi biết rằng lão Curtain có thể mang lão và lũ tay chân đi khắp nơi bằng một cỗ máy đáng sợ đến thế. Hắn từng làm bọn trẻ ở học viện sợ phát khiếp với những chiếc xe lăn có động cơ cải tiến, rít ầm ĩ, và chiếc Salamander này nghe có vẻ khá giống một phiên bản ngoại cỡ của cái máy kỳ cục quái dị đó.
“Nó đến từ hướng đó,” Milligan nói, chỉ tay về phía đông bắc. “Bố tưởng bọn chúng đổ bộ vào vịnh nhưng rừng cây phải vượt qua quá rậm rạp khiến chiếc Salamander không thể đi xuyên qua được. Có lẽ chúng lái vòng quanh hòn đảo, trên đường đi để lại quân trinh sát. Những Gã Số Mười là những tên giỏi theo dõi. Ngài Benedict và Số Hai sẽ không có cơ hội ẩn trốn và cũng không có chỗ nào để chạy cả.” Milligan giẫm gót giày vào vết bánh xe của Salamander, giận dữ trước ý nghĩ những người bạn của mình đã bị săn lùng.
Cảm giác giống Milligan, Kate hỏi: “Bố nghĩ họ đang ở đâu?”. Cô bé tưởng tượng đến lúc tìm thấy lão Curtain sẽ bạt tai hắn một phát, dù trong thực tế cô biết mình chẳng cỏ cơ hội đối đầu một mình với hắn.
“Bố nghi là bọn chúng đã đi sâu vào núi,” Milligan nói. “Chúng ta không nhìn thấy Salamander từ trên máy bay, bởi vậy có lẽ nó đã được giấu trong một rãnh đào hoặc hang núi.”
Sticky đi tới để thông báo Constance đang hoàn thành bức hình ghép. Cô bé chỉ mất có vài phút. Họ quay trở lại khi cô bé đang đặt miếng ghép cuối cùng vào. Trước mặt họ là tấm bản đồ của hòn đảo nằm trên mặt đất, nó chắc hẳn đã được mô phỏng theo những gì ngài Benedict thấy từ lá thư của Han de Reizeger. Ngài Benedict chỉ lựa chọn vẽ vài phần cụ thể của hòn đảo, và đã làm cho nó thật đơn giản nhưng đầy nghệ thuật, với một vệt màu cỏ úa như những mũi tên thẳng tắp biểu thị cho cánh rừng nhỏ, ba hình vòng cung bổ xuống biểu thị cho những dãy núi, và một nhóm dày đặc những hình vuông đại diện cho ngôi làng ở sườn núi bên kia. Một đường thẳng lốm đốm chạy thẳng xuyên qua tận cùng của dãy núi chính giữa, kết thúc ở chỗ ngôi làng.
“Mọi người nghĩ đường thẳng lấm chấm đó là gì?” Constance hỏi.
“Gần giống một đường hầm, biểu thị vị trí của nó,” Milligan nói. Ông quỳ xuống và gõ ngón tay vào ngôi làng. “Đây chắc hằn là chỗ các con sẽ gặp họ, đó cũng là điểm dừng kế tiếp của ta.”
“Điểm đến kế tiếp của chú?” Reynie nói. “Không phải của chúng ta sao?”
Milligan đứng lên. “Các con sẽ ở lại đây dưới tán rừng này. Ta đã quan sát các hướng và không thấy dấu hiệu nào có người đang đến - và hãy tin ta, nếu chúng ta bị phát hiện thì chắc chắn sẽ có người đang đến - vậy nên đây là nơi các con sẽ được an toàn nhất. Chỉ cần đừng có dùng đèn flash của con, Kate ạ, và tất cả các con cần giữ im lặng. Hãy giữ mình tránh khỏi tầm nhìn và luôn cảnh giác nghe ngóng. Nếu ta không trở lại... “
“Milligan!” Constance ngắt ngang bằng một giọng cáu kỉnh. “Chú thậm chí chưa xem mặt bên kia mà.”
“Mặt bên kia ư?” Milligan không nghe thấy chúng luận về phần này. “Còn gì nữa à?”
“Cho con một phút,” Kate vừa nói vừa với vào trong cái giỏ của mình. Cô bé lấy ra một cây bút lông có kích cỡ như một chiếc bút chì và cái lọ keo siêu dính rồi nhanh chóng quết keo lên các đường nối giữa những mảnh ghép. “Mất khoảng ba mươi lăm giây để hoàn thành,” cô bé nói. Không ai nghi ngờ con số này - mọi người đều biết Kate luôn tính toán chắc chắn - và quả là thế, khi Kate nâng tấm ghép lên là ba mươi lăm giây sau đó, các miếng đều dính vào nhau chắc chắn. “Bằng cách này chúng ta có thể lật qua lật lại nó nếu cần,” cô nói, mà không làm nó rời ra.
Kate đặt tấm bản đồ hướng mặt xuống đất, làm lộ ra ở phía sau một dãy những gạch ngang và dấu chấm hoàn toàn quen thuộc với mọi người.
“Chú không biết nó sao?” Reynie mỉm cười nói.
Ngài Benedict từng cho chúng học về mật mã Morse như là nhiêm vụ bắt buộc ở Học viện, và cả bọn đã có thể đọc được nó. Nhưng bởi vì Sticky là người dịch nhanh nhất, nên những đứa kia thường ỷ lại cho cậu việc xử lý các thông điệp mã hóa, suốt thời gian qua chúng đã quen với thói quen ấy và bây giờ lại quay sang hỏi cậu. Sticky nhăn nhở cười - nỗi ngượng ngùng pha lẫn tự hào - rồi dịch lời nhắn:
Thật vui vì các cháu đã ở đây. Trong làng sẽ tìm thấy các nhu yếu phẩm và manh mối, vì có thể chúng ta đã ra ngoài khi các cháu đến. Manh mối này sẽ đưa các cháu tới chỗ chúng ta. Sớm thôi. B.
“Một manh mối khác!” Kate reo lên đắc thắng. “Vậy bố phải mang chúng con theo, bố Milligan. Bố biết mà!”
Milligan tỏ ra khá bình thản trước sự ngạc nhiên của bọn chúng. “Dù sao thì bố cũng thà giữ mấy đứa càng gần càng tốt còn hơn. Nhưng chúng ta không biết chắc là ngôi làng có an toàn hay không.” Ông cân nhắc một lúc. “Được rồi, chúng ta sẽ làm thế này. Chúng ta sẽ băng qua vùng đất bằng tới chân dãy núi. Các con sẽ đợi ở đó cho tới khi ta lục soát qua đường hầm và ngôi làng. Nếu tất cả an toàn, ta sẽ đưa các con vào làng và chúng ta có thể xem xét manh mối kia. Dù vậy, ngay khi chúng ta giải quyết xong, ta sẽ mang các con trở lại đây. Ta không muốn một lời tranh cãi nào về chuyện đó nữa.”
Bọn trẻ đồng ý và chuẩn bị lên đường ngay, nhưng Milligan nói họ sẽ đợi tới khi trời tối hơn. Trời càng tối thì họ càng dễ băng qua vùng đồng bằng quang đãng.
“Chúng ta cũng nên bỏ lại cái bản đồ,” Milligan nói. “Mang theo nó sẽ làm chúng ta chậm đi, mà ta muốn băng qua vùng này nhanh nhất có thể.”
“Constance và cháu sẽ giấu nó đi,” Reynie nói, để ý thấy ánh nhìn buồn bã trong mắt cô gái nhỏ. Cậu biết cô bé đang nghĩ gì. Chiếc bản đồ chuông gió này cũng là một ví dụ khác về sự rắc rối mà bọn trẻ đã gây ra cho ngài Benedict - một bằng chứng rõ ràng cho tình yêu thương ông dành cho bọn chúng - và nó có thể là thứ cuối cùng, vì không gì đảm bảo rằng ông sẽ để lại được manh mối kế tiếp trước khi bị bắt. Reynie đoán rằng Constance đang rất muốn có thêm một phút giữ tấm bản đồ và điều đó được khẳng định khi cô bé không hề cằn nhằn cậu vì tình nguyện giúp cô bé.
“Anh có nghĩ chúng ta nên chôn nó không?” Constance hỏi khi họ đang ngày một di chuyển sâu hơn vào rừng.
Reynie lắc đầu. Chôn tấm bản đồ có vẻ như gợi nhớ tới một tang lễ, cậu nghĩ, và điều đó hẳn khiến Constance thấy rất thương tâm. “Chúng mình chỉ cần phủ cành lá cây vân sam lên trên thôi.”
Constance gật đầu đầy nhiệt tình với vẻ vừa biết ơn vừa cảm thấy nhẹ nhõm. Cô như thể một cô nhóc ba tuổi mà Reynie từng thấy trước đây - dễ tổn thương, đầy hy vọng và hoảng sợ - và giờ đến lượt cậu cũng có chung cảm giác đó.
Trước khi họ đi được hai mươi bước, Kate đã bắt kịp. “Bố Milligan muốn các cậu luôn ở trong tầm nhìn,” cô bé nói. “Tớ đã nói với bố là tớ không nghĩ các cậu định đi xa để tổ chức tiệc trà, nhưng ông không muốn có bất kỳ điều gì sơ sẩy.”
“Nói với chú ấy là bọn mình sẽ ra vịnh để bơi,” Constance đảo mắt nói.
Kate khịt mũi. “Tức cười thật đấy! Chị sẽ nói với bố điều đó. Ồ, chị có thể hình dung khi đó quai hàm của ông sẽ nghiến chặt lại.” Cô bé quay người trở lại chỗ bìa rừng.
“Tâm trạng của Kate chắc chắn đang rất tốt đây,” Reynie khiển trách.
“Em biết,” Constance nói, “và rất tức giận.”
Quả là thế, lâu lắm rồi Kate mới cảm thấy sôi nổi và vui vẻ như thế này. Cô bé thấy thật ly kỳ khi nhìn bố mình làm việc - thậm chí chỉ là việc quan sát bầu trời, như bố Milligan đang làm bây giờ - hay một phần trong nhiệm vụ giải cứu mà theo quan sát của cô là nhất định sẽ thành công.
“Cậu biết không,” cô nói với Sticky trong khi chờ đợi, “nghe cậu dịch cái mật mã Morse làm tớ nhớ tới thời gian chúng mình ở Học viện. Tớ chẳng bao giờ dịch được với tốc độ nhanh đến thế.” Cô bé cười lặng lẽ. “Tớ nhớ những ngày đó, còn cậu thì sao? Ý tớ là ngoại trừ những lúc khủng khiếp ấy.”
Sticky nhoẻn miệng cười và gật đầu. Cậu cũng có cảm giác hoài niệm như thế nhiều lần rồi chứ không chỉ riêng lúc này (cậu thích bị dọa dẫm lúc đó hơn là bị dọa bây giờ), và lời khen ngợi của Kate khiến tinh thần cậu phấn chấn hơn hẳn. “Tớ đặc biệt nhớ cái lúc cậu rơi từ trần nhà xuống và dọa bọn tớ sợ mất vía.”
Kate cười vang đưa tay xoa cái đầu hói của cậu bạn một cách trìu mến – rồi giật mạnh tay ra sau như thể vừa bị chích phải bụi gai. “Au! Cậu có mấy cái tóc lởm chởm sắc ghê!”
Sticky nhún vai, vẫn cười nhăn nhở. “Xin lỗi. Tóc đang mọc, cậu biết mà.”
“Đó là điều bố Milligan vẫn thường nói,” Kate lầm bầm. “và ông cứ băn khoăn tại sao tớ chẳng bao giờ muốn hôn má ông.”
Khi Reynie và Constance trở lại sau khi làm xong nhiệm vụ, Milligan bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng. Trời vẫn còn chưa tối như ý ông muốn, nhưng nó sẽ không tối thêm nữa - một vầng trăng tròn vành vạnh đang nhô lên ở phía đông và trời quang đãng không một gợn mây. Và vì thế, họ lại càng bị áp lực hơn trong việc cần phải giữ cả im lặng và tốc độ, Milligan dẫn lũ trẻ đi ra một khoảng đất bằng. Để hạn chế thời gian ở ngoài khoảng trống, họ lên đường với một tốc độ khẩn trương. Với Milligan chuyện này chỉ là chạy nhanh một chút, nhưng với lũ trẻ thì đó quả là một cuộc chạy nước rút, và Milligan cứ bế hết đứa này đến đứa kia, cứ thay đổi thế mỗi khi có đứa nào chạy hết hơi không thở được. Kate cõng Constance chạy cả quãng đường. Đó quả là việc đòi hỏi phải dai sức, và ngay cả nếu Milligan không cấm trò chuyện thì Kate cũng chẳng thể nào thốt lên được một lời.
Suốt một khoảng thời gian, những dãy núi dường như chẳng hề nhích lại gần chút nào, càng về sau họ lại như nhích từng centimet thay vì từng mét, nhưng cuối cùng họ cũng chạy được tới những dãy núi. Lối vào hầm nằm ở tận cùng dãy núi giữa, và họ không gặp khó khăn gì để tìm thấy nó. Dưới ánh trăng một cái miệng tròn đen ngòm mở ra có thể thấy rõ ngay từ khoảng cách xa - nó trông giống một cái hang chuột dưới chân một chiếc chạn khổng lồ - và Milligan dẫn chúng thẳng tới đó. Cuối cùng họ cũng đến được gần (nhưng chưa quá gần), ông ra lệnh cho chúng ở yên đó trong khi mình đi lục soát trước. Lũ trẻ thụp xuống mặt đất đá - ngoại trừ Constance, mọi người đều đang thở hổn hển. Trong phút chốc, Milligan biến mất vào bóng tối đường hầm, bước chân ông không tạo ra một tiếng động nào.
“Đường quang,” ông nói khi trở lại. “Đường hầm hẹp, nên chúng ta sẽ phải đi theo hàng một. Đây, Constance, chú sẽ bế cháu, còn cháu có thể cầm đèn chiếu cho chú.”
“Nhưng cháu không muốn cầm ... “
“Không sao. Chú sẽ cầm.”
Milligan dẫn đầu cùng với Constance trên lưng và những đứa khác theo sát phía sau. Các vách tường và sàn đá của đường hầm đều ẩm ướt và gồ ghề, nó quả là rất hẹp. Nhìn bề ngoài nó có vẻ được tạo thành bởi một mạch nước ngầm cổ xưa, mặc dù nhiều chỗ rõ ràng đã được mở rộng hơn bằng đục và búa. Reynie hình dung những người dân làng coi đây là đường di chuyển nhanh nhất để đến phần phía đông của hòn đảo. Những dãy núi này không phải quá lớn - thực tế, đối với núi thì chúng tương đối nhỏ - nhưng vẫn sẽ mất nhiều giờ để vượt qua nó hoặc đi vòng qua. Nhưng mặt khác, đường hầm xuyên thẳng qua sẽ nhanh hơn và ít đường đất hơn, và sau hai mươi phút Reynie đi theo Milligan đã ra đến không gian bên ngoài.
Họ xuất hiện gần chân ngọn núi, đủ dốc cao để có một tầm nhìn tuyệt vời tới một nửa phía tây hòn đảo - hay cảnh mặt trăng nhú lên qua dãy núi. Tuy nhiên, ngay cả trong bóng tối, họ vẫn có thể nhìn ra được cánh rừng ngay dưới con dốc và ngôi làng bị bỏ hoang phía tay phải dọc bìa rừng - hai dãy nhà đổ nát xiêu vẹo chạy dọc hai bên con đường mòn rộng rãi. Ngôi làng gợi Reynie nhớ đến các thị trấn ở biên giới mà cậu đã nhìn thấy ở phương Tây cũ, hoặc ít nhất là các con đường chính của các thị trấn đó, vì nó không có lề đường hoặc các công trình kiến trúc nhưng là một con đường dài, thẳng tắp và đột ngột kết thúc như lúc nó bắt đầu. Milligan rà soát các tòa nhà và khu vực xung quanh bằng ống nhòm. Ông lắng nghe cẩn thận. Rồi sau đó ông dẫn lũ trẻ xuống dốc đi vào làng.
Milligan không cần nhắc nhở chúng ở cạnh nhau. Kiến trúc cũ kỹ, mục nát của ngôi làng mang dáng vẻ hiu quạnh và buồn bã vào ban ngày, nhưng khi đêm đến chúng như những bóng ma vậy. Một số lượng lớn các nhà nghiêng nghiêng về phía đông, bị xô đẩy thô bạo như vẫn thế bởi những cơn gió tây hàng thập kỷ nay, và ba, bốn ngôi nhà mái đã bị bão tốc đi. Những mái nhà này đều nằm về hướng đông của các tòa nhà trước đó - những đống xà nhà mủn ra và những tấm ván lợp bằng gỗ mục nát.
Milligan và lũ trẻ đi xuống con đường mòn, nhìn trái nhìn phải nhưng cũng chú ý bước chân mình, vì con đường này - dù có thể từng có thời là đường lộ - bây giờ đã bị lún xuống và gập ghềnh, rất khó đi. Trong im lặng họ đi qua hết tòa nhà này đến tòa nhà khác, tất cả đều có những ô cửa sổ và khung cửa tối đen.
Đi đến khoảng nửa đường, họ tới chỗ cái giếng làng. Giống như vài ngôi nhà, mái giếng đã bị thổi bay trong một cơn bão - nó nằm lộn xộn trong một chảng cỏ dại, cách xa những cây cột trụ cằn cỗi được dùng để chống đỡ nó - và cái tời quay gỉ sét từng được treo trên miệng giếng đã bị rơi chỏng chơ sang một bên, vẫn còn thòng theo cái giỏ gỗ có đáy đã mục rỗng ra từ lâu bị bỏ rơi ở đó.
“Thật là xấu hổ,” Kate lẩm bẩm, vì rõ ràng nó từng là một chiếc giỏ tuyệt vời.
Milligan gọi một tiếng, cả nhóm liền tụ lại gần cái giếng để thảo luận sẽ làm gì tiếp theo. Không có dấu hiệu nào, không có ám hiệu chỉ dẫn ở bất cứ đâu, con người đã đi qua nơi này từ nhiều năm trước. Nếu ông Benedict để lại nhu yếu phẩm như lời nhắn đã hứa thì ông cũng không để lại bất cứ điều gì rõ ràng về địa điểm cả.
“Chỉ có một nửa các tòa nhà ở đây cho thấy không có động tĩnh gì,” Milligan nhận xét. “Số còn lại đều trong tình trạng đổ nát. Ngài Benedict phải biết Rhonda và ta sẽ không bao giờ để các con mạo hiểm đi vào những nơi nguy hiểm như thế, vậy nên chúng ta có thể loại chúng ra.”
“Vẫn sẽ còn lại rất nhiều nhà,” Reynie nói. “Chuyện này có thể mất thời gian.”
“Có thể những món đồ đó không ở trong một tòa nhà nào,” Kate nói, nghiêng người trên bức tường đá của cái giếng. Cô bé chiếu đèn soi xuống khoảng tối đen. Phía dưới chừng ba mươi mét cô bé thấy có thứ gì đó làm méo hình ảnh của mình, phản chiếu ánh đèn ngược trở lên. “Không, chỉ toàn nước. Ít nhất chúng ta cũng sẽ không chết khát nếu không thể tìm thấy các nhu yếu phẩm. Tớ không biết các cậu thế nào chứ chạy băng qua vùng đồng bằng kia làm tớ khát khô đây này.”
“Bị mất nước,” Sticky nói, giọng cậu có gì đó ồm ồm.
Reynie gật đầu. “Khô nẻ.”
Milligan lấy một cái chai bẹt từ trong áo khoác ra và ném cho Kate. “Ba ngụm mỗi đứa,” ông nói. Trong khi lũ trẻ chia nhau nước uống, họ tiếp tục bàn luận về cách tốt nhất để giải quyết, nhưng không ai có thể nghĩ ra được phương pháp nào hiệu quả mà đơn giản hơn là kiểm tra từng tòa nhà còn vững chắc cho tới khi bọn họ gặp vận may. “Ta e là phải làm thế,” Milligan nói, thu lại cái chai bẹt. “Chúng ta hãy đi ngược trở lại và bắt đầu từ phía đông. Chúng ta sẽ tiến hành một vòng xem sao.”
Tòa nhà đầu tiên Milligan nghĩ rằng đủ an toàn để đi vào là một ngôi nhà, bọn họ di chuyển thận trọng qua các căn phòng tối om của nó, tìm kiếm các manh mối. Xem xét từ số lượng những chiếc giường lạc mốt, họa tiết vặn thừng trên gác xép, nơi này từng là nhà của một gia đình lớn. Bây giờ nó là nhà của dơi và nhện, sàn nhà bằng gỗ bị phủ bụi dày đã hàng thập kỷ. Một cảm giác đau đớn dâng lên, bọn trẻ thấy ngài Benedict và Số Hai đã từng ở đây - những dấu chân của họ trên lớp bụi dày ở khắp nơi trong ngôi nhà nhưng họ có vẻ chỉ đi vòng quanh xem xét vì ngôi nhà rõ ràng trống trơn.
Họ tìm kiếm thêm hai ngôi nhà trống nữa trước khi bước vào một tòa nhà khác được xây bằng đá và vữa hồ gần trung tâm ngôi làng. Tòa nhà này, bề ngoài có vẻ giống một nhà kho hoặc kho thóc (một kho thóc lớn hơn cả cái ở trang trại của Milligan), gồm một căn phòng đơn lớn, không có cửa sổ và xà nhà khá cao. Điều khiến cho nó không bình thường là số lượng những thanh trụ gỗ dày, vươn lên từ sàn cho tới trần nhà, tạo ra một ấn tượng rất kỳ lạ về một cánh rừng bị vây kín trong những bức tường. Các cây trụ, nằm cách đều nhau khắp căn phòng, được đóng đầy những đinh móc lớn hẳn là từng được dùng để treo đồ. Trên sàn nhà bụi bặm, dấu chân của ngài Benedict và Số Hai đi lang thang quanh những cây cột từ bức tường này tới bức tường kia.
Kate chiếu đèn soi xung quanh. “Tớ không hiểu. Những cái móc này tất cả đều có cùng độ cao - tầm bảy mươi phân và mét rưỡi - nhưng để treo cái gì thấp thế chứ? Các cậu phải cúi khòng lưng xuống để lấy những thứ đó ra khỏi móc.”
“Có thể dân làng rất lùn,” Sticky nói.
Kate khịt mũi. “Một ngôi làng của người lùn ư?”
“Cửa ra vào và cửa sổ đều có kích thước bình thường,” Reynie nói. Cậu quỳ xuống để xem xét cặp móc treo kia, cả hai đều có nút thắt còn sót lại của dây thừng. “Tớ không nghĩ những người lùn sống ở đây.”
“Tớ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về người lùn cả,” Sticky bực mình nói.
“Dù thế nào đi nữa,” Kate nói, “nó vẫn là một nơi kỳ quái.”
“Nó cực kỳ cứng cáp,” Milligan nói, chiếu đèn lên những thanh xà, rồi lên cánh cửa bằng gỗ nặng nề với những chốt và bản lề bằng sắt. “Là tòa nhà vững chãi tthất trong ngôi làng này. Mái nhà sẽ vẫn chắc cho dù tường có đổ xuống.”
Reynie đứng đó. “Cháu nghĩ đây là một nơi tránh bão. Đó là lý do vì sao nó không có cửa sổ và quá vững chắc. Có đủ cột chống và móc để mắc hàng tá võng. Nếu một cơn bão tồi tệ thổi đến - hiển nhiên là có những cơn bão khủng khiếp ở vùng này rồi - mọi người trong làng vẫn có thể ngủ ngon lành.”
“Một nơi ẩn tránh của cộng đồng. Điều đó quả có ý nghĩa,” Sticky nói, cố gắng nghe cho có vẻ tán thành, dù thực sự cậu ta thấy thất vọng vì bản thân không nghĩ ra được.
Trái với tò mò, nơi ẩn tránh này đều trống không, cả nhóm lại tiếp tục di chuyển. Tòa nhà tiếp theo họ tìm kiếm là một ngôi nhà khác, cũng không có dấu hiệu nào của bạn bè họ ngoại trừ những dấu chân trên cát. Căn nhà sau đó còn không có cả dấu chân, Sticky liếc nhìn sàn nhà một cái liền nói, “Chúng ta đừng phí thời gian ở đây nữa. Họ không vào ngôi nhà này đâu.” Rồi cậu ta quay ra.
Reynie tóm lấy cánh tay cậu bạn. “Thực ra, Sticky ạ, tớ khá chắc đây là nơi cần tìm đấy.” Cậu chỉ vào cái sàn gỗ sạch bong. “Có thể họ đã đến đây và đã quét dọn nó.”
***
Kate phát hiện ra nhu yếu phẩm trong một căn phòng xép trên lầu, cùng với một cây chổi tạm thời mà ngài Benedict và Số Hai đã cải biến ra từ một cây gậy và một mớ cành cây nhỏ. Ngôi nhà hiển nhiên đã từng thuộc về một người làng phát đạt giàu có nhất, không thì cũng là một thợ mộc lành nghề và nhiệt tình nhất, vì nó có hai tầng được xây rất tốt, mỗi tầng lại có mấy phòng có cánh cửa ra vào và cửa chớp còn nằm ngay ngắn ở trên khung. Ngài Benedict và Số Hai chắc hẳn đã nghĩ đây là nơi hoàn hảo cho cả nhóm làm nhà ở và là đại bản doanh tạm thời.
Căn phòng xép đó nằm ở cuối một hành lang ngắn, Kate đứng trước cánh cửa mở hé của nó, soi đèn chiếu lên các giá đồ. Cô bé tìm thấy các nhu yếu phẩm và gọi những người khác, họ còn đang tìm kiếm quanh phòng ngủ và giờ đang chạy tới.
Một cái chặn cửa ngăn cánh cửa phòng xép mở rộng hẳn, nên phải va chạm, chen chúc đáng kể, Reynie và Constance mới đến được bên Kate túm tụm nhìn vào. Milligan thì đơn giản chỉ đứng sau và nhìn qua đầu chúng là được, trong khi Sticky tụt đằng sau, quá ngượng ngùng không dám chen lên tìm chỗ. (Cậu chàng tự thấy mình thật ngu ngốc đối với chuyện mấy dấu chân kia, cậu nghĩ thế nên dù không ai trêu chọc - thậm chí cả Constance cũng không - nhưng cậu vẫn cảm thấy xấu hổ khủng khiếp.)
“Họ hẳn đã phải làm vài chuyến mới mang được số hàng này vào đây,” Kate nói trong khi nhìn tất cả số nhu yếu phẩm. Căn phòng xép này khá nông, chỉ hơn một bức tường kê giá sách một chút, nhưng những giá này cất một lượng nước dự trữ, đồ ăn đóng hộp, quả hạch, quả khô, sữa bột đáng kể, và - quan trọng nhất - bánh quy giòn graham, những thanh chocolate, kẹo xốp để nướng trên lửa. (Nhìn thấy nó khiến lũ trẻ chảy nước miếng, chúng đã không được ăn gì hàng giờ đồng hồ rồi.) Thêm vào đống đồ dự trữ này còn có hai chiếc đèn xách tay chạy pin và đủ túi ngủ thêm một số chăn thừa cho mọi người nữa.
Có khả năng manh mối kế tiếp sẽ được giấu trong số đồ này, nên sau khi đã uống no nước và ăn vội vàng nhồm nhoàm ít thức ăn, họ bật đèn xách và bắt đầu đi xem qua những thứ còn lại trong phòng xép. Đó là một nhiệm vụ khó chịu vì cánh cửa phòng xép không mở rộng ra được, khiến Kate thật khó chuyền các món đồ ra mà không bị đụng khuỷu tay. Khi cô bé đã bị va đụng đến lần thứ ba, cô đề nghị họ tháo bỏ cánh cửa khỏi bản lề để làm việc dễ hơn.
“Quên cái bản lề đi,” Reynie nói.
“Anh ấy tìm thấy nó rồi!” Constance reo lên, cô bé vẫn đang quan sát nét mặt cậu.
“Thấy gì cơ?” Milligan hỏi. Ông không thấy Reynie nhúc nhích một phân nào ngoại trừ liếc mắt nhìn các khung cửa xung quanh.
Reynie ngừng lại, chớp chớp mắt - cậu vẫn không thể quen với năng lực tri giác của Constance - rồi lắc đầu và quỳ xuống cạnh cái chặn cửa. “Đây là cái chắn cửa được đặt một cách vụng về nhất trong lịch sử, mọi người không nghĩ thế sao? Chưa nói đến nó là cái duy nhất trong ngồi nhà này. Nó làm tớ nhớ đến cái bàn trong phòng khách sạn - và tớ nghĩ nó có ý nghĩa nào đấy - Đây, Kate, giúp tớ cạy nó lên với.”
Kate mở con dao quân dụng Thụy Sĩ của mình và cạy cái chặn cửa lỏng ra. Hóa ra nó là một miếng gỗ rỗng với một lời nhắn kẹp bên trong có ghi:
Nếu các cháu tìm đến chỗ chúng ta sớm,
Tìm bên dưới mặt trăng sinh đôi của thị trấn.
“Một câu đố khác,” Sticky nhíu mày nhăn mặt nói. “Tớ đang hy vọng có một tấm bản đồ.”
“Có lẽ manh mối tiếp theo là một tấm bản đồ,” Kate nói. Cô bé đọc manh mối lần nữa. Hoặc có lẽ có một lối đi bí mật bên dưới mặt trăng sinh đôi này.”
“Hoặc một dấu vết bắt đầu từ địa điểm đó,” Reynie gợi ý.
“Cho dù là gì đi nữa,”Constance nói, “chúng ta cũng khẩn trương lên, đi tìm nó đi. Cái mặt trăng sinh đôi này là gì thế?”
Tất cả cùng nhìn sang Sticky, cậu ta nhún vai vẻ lấy làm tiếc. “Tớ chưa bao giờ nghe nói đến thứ như thế.”
“Ngài Benedict có anh em sinh đôi,” Reynie nói. “Có lẽ ông ấy muốn ám chỉ bản thân như là ‘cặp sinh đôi của thị trấn’. Nhưng thế thì mặt trăng đó sẽ là gì?”
Không ai biết.
“Nó có lẽ trực tiếp hơn thế,” Milligan nói. “Có thể một trong số các tòa nhà này từng là quán rượu hoặc nhà trọ. Mặt Trăng Sinh Đôi nghe có vẻ giống tên một nơi như thế. Chúng ta nên xem xét chung quanh để tìm một biển hiệu cũ, một tấm biển khắc trên cửa, hoặc biểu tượng nào đó như thế.” Ông bắt đầu hướng xuống cầu thang, nhưng nửa đường lại dừng lại và ngẩng đầu.
Lũ trẻ di chuyển theo sau ông, nhưng Milligan ném cho chúng một ánh mắt cảnh cáo và đưa một ngón tay lên môi. Nếu biểu hiện của ông không làm chúng đông cứng lại tại chỗ thì âm thanh hỗn loạn chúng nghe thấy lúc này cũng làm được điều đó. Tiếng những bước chân lớn dần, rồi dừng lại. Có ai đó đang ở trước cửa nhà. Milligan lấy ra khẩu súng gây mê.
Đột nhiên Constance thở gấp. “Chú Milligan, đừng! Đó là...”
Ngay khi cô bé kêu lên thì cánh cửa mở bật ra, một bóng người bổ nhào vào tiền sảnh, chỉ nhờ lời cảnh cáo của Constance và phản ứng nhanh của Milligan mới tránh cho kẻ xâm nhập kia một mũi tên vào vai.
“... Số Hai!” Constance nói nốt.
Kate chiếu đèn rọi xuống cầu thang, và quả thật đó là Số Hai đang ngước lên nhìn bọn họ từ chỗ cô bị ngã nhào đang chống hai tay hai chân nhỏm lên. Cô nheo mắt vì ánh đèn chiếu với đôi mắt thất thần, hoang dã.
“Constance à?” cô nói, vì Constance là người gọi tên cô. “Có phải tôi - tôi đã đến nhà rồi không? Và ở đây tôi...” Số Hai cười yếu ớt. “Ở đây tôi đã nghĩ... Ôi, Constance, tạ ơn Chúa! Tôi đang mơ mình vẫn còn ở trên hòn đảo kinh khủng đó!”
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét