Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 26

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 26: Xin lỗi, giải thích, và những ý kiến dễ thương nhất

“Em không thích thế,” Constance đáp. “Sao em lại phải có nhiệm vụ tìm nó chứ?”
“Chẳng phải em vẫn có ý rằng em thường có khả năng tìm kiếm các thứ ở đây sao?” Reynie hỏi.
“Việc đấy chẳng có nghĩa gì cả,” Constance thản nhiên đáp.
Các thành viên trẻ tuổi của Hội Benedict Thần Bí đang ngồi thành vòng tròn trên nền nhà ở phòng ngủ của Constance. Trong khi chúng đi vắng căn phòng đã được dọn dẹp hoàn toàn sạch sẽ và ngăn nắp. Quả là cả ngôi nhà đã được lau chùi dọn dẹp, rất nhiều chỗ gạch vỡ được gắn lại và những lỗ hổng được lấp kín, nhờ có vợ chồng ông bà Washington và mẹ con cô Perumal, họ khiến mình bận rộn luôn tay luôn chân để không có khoảng trống nào mà lo lắng nghĩ ngợi. Constance trở về trong có một tuần, quả là quãng thời gian quá ít ỏi để làm mọi thứ kịp trở lại tình trạng lộn xộn vốn có của nó, và cô bé cứ than vãn rằng phòng ngủ của cô thay đổi quá nhiều.
“Thế này khá hơn một chút phải không?” Kate vừa hỏi và chỉ vào đống đồ giặt là trên chiếc giường không hề được thu dọn của Constance. “Em chẳng lau dọn cái gì từ khi chúng ta về cả, và ngăn kéo trên cùng của em hoàn toàn trống rỗng ngoại trừ một bọc bỏng ngô mốc meo. Chị còn chẳng muốn biết tại sao thứ đó ở trong đấy nữa.”
“Sao chị lục lọi ngăn kéo của em?” Constance vặn vẹo.
“Để tìm cái này,” Kate vừa nói vừa vẫy vẫy quyển nhật kí du hành mà ngài Benedict đã đưa cho chúng. “Và chị thấy em đã gian lận - em đã thay quyển khác vào.”
Constance chu mũi lên. “Khi cảm hứng vẫy gọi,” cô bé thản nhiên đáp, “em không có cách nào khác đành phải đáp lại.”
Bọn trẻ con bắt đầu viết những dòng đầu tiên vào quyển nhật kí - ngay khi đó Reynie phải hứa với Constance sẽ nhường cô bé trước - và bài đầu tiên được chính Constance sáng tác, với một bài thơ ngắn với cảm xúc phẫn nộ về những trải nghiệm của say sóng. Kate nối tiếp với một trang những ghi chép về nước chanh cô khăng khăng rằng chưa được uống đã mười năm nay, rồi Reynie viết tóm tắt bằng hai trang giấy, thuật lại sống động chuyến phiêu lưu của bọn chúng - bài tường thuật được kết với thông tin hé lộ rằng lão Curtain đã không trốn thoát cùng năm mươi hộp cỏ đêm, y như bọn trẻ ban đầu mong muốn.
Reynie đã viết rằng, Đó là cỏ-phá-hoại, vét sạch nhẵn nhụi, và ngài Benedict đã biết chuyện. Ông và Số Hai đã cạo sạch sẽ cả cái hang trước khi lão Curtain kịp xuất hiện. Nửa thế kỉ là quãng thời gian quá đủ để một số mẫu vật mà Han de Reizeger đã nhìn thấy đánh bại được cỏ đêm. Ngài Benedict bí mật giữ kín điều này, và đã đoán đúng rằng liệu lão Curtain bị buộc phải lựa chọn giữa đối đầu với kẻ thù của lão hay vội vàng trốn thoát với thứ rêu quý giá đó, lão đã chọn cách thứ hai. Và rồi đó lại là cỏ-phá- hoại, không phải cỏ đêm, thứ mà lão Curtain đã kiếm đựợc trong hang núi này, và thậm chí khi lão và tay chân của mình cố xoay xở đề lẩn đi trong màn sương mù, lão vẫn chưa phát hiện ra nỗi thất vọng cuối cùng này.
Reynie không viết gì thêm về thứ cây kia, nỗi thất vọng riêng tư mà chúng đều cảm thấy, cỏ đêm đã hứa hẹn giúp chấm dứt nỗi khổ sở mà ngài Benedict phải chịu đựng, giờ đây nó đơn thuần chỉ còn là thứ thuộc về lịch sử và huyền thoại. Và mặc dù ngài Benedict không tỏ chút tiếc nuối gì về việc nó biến mất, và điều đó lại ngăn chặn được một vài thảm hoạ gây ra bởi bàn tay em trai ông, thì mọi người yêu quý ông vẫn mong ước chuyện đáng lẽ nên xảy ra theo cách khác. Tất cả những chuyện này khiến Reynie khó lòng diễn đạt bằng ngôn từ hùng biện thích hợp, thế nên cậu viết thêm vào bài của mình một câu đơn giản nhưng bí hiểm, nó có thể áp dụng dễ dàng cho cả ngài Benedict hay lão Curtain: Thêm một giấc mơ nữa bị huỷ hoại.
Giờ đến lượt Sticky viết bài - bọn chúng đã thống nhất để cậu ta viết cuối cùng, để cậu ta không ngẫu nhiên sử dụng hết cả giấy trước khi những đứa khác kịp viết được gì - nhưng Constance lại giành lấy lượt và tự viết một bài khác.
“Tốt thôi,” Sticky vừa nói vừa giơ cánh tay bị băng bó lên. “Dẫu sao tớ cũng không cầm vững bút với cái thứ này.”
“Mẹ cậu sẽ không để cậu tháo nó ra ư?” Reynie hỏi, hai bàn tay cậu gần như sắp lành hết những vết cứa và bỏng rộp do kéo tấm ván trượt. Sticky là đứa duy nhất còn phải quấn băng.
“Chưa đâu,” Sticky vừa nói vừa nhún vai. Cậu tựa người ra sau trên hai khuỷu tay và vui vẻ bắt chéo hai chân. Những cuộc hội họp riêng tư này trong phòng riêng của Constance mang lại cho cậu thời gian thư giãn cần thiết để thoát khỏi sự chú ý của bố mẹ cậu - họ dành đến nửa thời gian của họ để nuông chiều cậu, rồi nửa thời gian còn lại mắng mỏ cậu vì cư xử thiếu thận trọng - và được ở trong đây khiến cậu rất cảm kích, cảm xúc này đưa cậu vào một tâm trạng căng đầy phấn khích. “Hãy nghe xem em đã viết gì nào, Constance. Anh không chờ được nữa.”
“Ồ, các cậu sẽ thực sự thích nó đấy,” Kate vừa nói vừa trả lại quyển nhật kí cho Constance với một nụ cười bí hiểm.
Constance đằng hắng giọng. “Bài thơ này có tựa đề Cú ngã kinh hoàng.” Cô bé chờ một lát cho nhan đề bài thơ đủ thấm - rõ ràng là cô bé nghĩ đó là cái tên hay - và rồi, với giọng đọc đầy xúc động, cô bé bắt đầu ngâm nga:
Bóng đêm đen kịt, chim cú kêu gào
Tôi đứng trên một toà tháp cao
Chẳng nghĩ rằng mình sẽ ngã ra sao...
Cảm tạ anh chàng nào đã đâm bổ vào.
Mặc dù sợ hãi, tôi vẫn đề cao cảnh giác.
Không giấc ngủ vô tư nào làm tôi chệch hướng khác
Khỏi nhiêm vụ cao cả của mình, tới khi đau đốn lấn át...
Cảm tạ anh chàng nào đã đâm bổ vào.
“Anh xin lỗi, lần thứ hai mươi rồi nhé, Constance,” Sticky bối rối, tâm trạng phấn khích của cậu đã giảm đi đáng kể. “Em viết một bài thơ để ám chỉ chuyện đó à?”
“Em biết anh đã xin lỗi,” Constance đáp cao giọng để át đi tiếng cười khúc khích của Reynie và Kate. “Giờ hãy cứ giữ lấy những lời bình luận của anh tới khi em làm xong. Vẫn còn ba khổ nữa cơ.”
Tuy nhiên, những khổ thơ còn lại phải chờ đấy, vì lúc đó Số Hai gõ cửa phòng. “Xin lỗi đã cắt ngang những âm mưu mà các em đang bàn tính nhé,” cô nói khi bọn trẻ mời cô vào, “nhưng Moocho nhờ chị nói với các em rằng món bánh đã sẵn sàng. Ngài Benedict đã đẩy hết các viên chức ra khỏi nhà rồi, và thuyền trưởng Noland và Joe Shooter đang mong được tham dự với chúng ta đấy. Đó sẽ là một cuộc sum họp ấm cúng.” Cô với tay vào túi chiếc quần màu vàng và lôi ra một cuộn thước dây. “Và chị còn muốn đo quần áo cho các em nữa. Làm ơn đứng dậy nào.”
Vẻ mặt nhẫn nhịn, bọn trẻ đứng dậy. Bọn chúng đều vui mừng khi thấy Số Hai đã hồi phục - cô gần như đã trở lại thành chính cô rồi - nhưng chúng cũng biết cô đã quyết định “làm cho chúng cái gì đó thật đặc biệt” như là một vật lưu niệm để bày tỏ lòng biết ơn của cô vì bọn chúng đã thay mặt cô mạo hiểm cả mạng sống của mình. Kate đã thấy bản vẽ phác hoạ của cô ấy sáng nay, và cả bốn đứa đều tránh mặt Số Hai từ đó đến giờ. Dẫu thế, giờ thì bọn chúng mắc kẹt rồi, và từng đứa một sẽ phải chấp nhận được may đo, chỉ có Constance là không thấy than phiền gì.
“Các em đều lớn lên nhiều quá!” Số Hai thốt lên, phác hoạ hình vẽ người lên một mảnh giấy. “Chị tin rằng điều này sẽ được mong đợi. Ở thời điểm nào đó, cơ thể các em phải bắt kịp với trái tim các em.”
Bọn trẻ đảo tròn mắt. Số Hai từ lúc phục hồi cảm giác thì nói năng trở nên uỷ mị hơn. (Thoạt đầu, Kate tranh luận rằng điều đó là dấu hiệu cô ấy vẫn còn mê sảng, nhưng Số Hai đã la cô đến mức phải bị thuyết phục, rồi ôm và hôn cô đến mức Kate phải bỏ chạy.) Còn về phần mình, Reynie thì bí mật trông cậy vào Constance để chọc tức Số Hai trở lại đích thực như trước kia, một người ngay thẳng.
“Đấy!” Số Hai tuyên bố. “Giờ nếu các em định làm nốt mấy cái trò ranh mãnh mà các em đang toan tính...” Tới đây cô tự ngắt lời mình, đặt mảnh giấy xuống rồi vẻ rất nghiêm trọng thọc tay sâu vào trong túi áo. Cô lôi ra một gói nho và dốc nó hết vào miệng. “Chỉ là món ăn nhanh trước món bánh thôi mà,” cô vừa nói vừa nhai vội nhai vàng. “Hãy đi ra sớm nhé. Moocho sẽ thất vọng lắm nếu các em không xuống ăn lúc đang nóng đấy.”
Khi Số Hai đi rồi, Constance nhắc tới mảnh giấy có viết số đo của bọn chúng trên đấy. “Cô ấy để quên nó rồi.”
“Huỷ nó đi,” Reynie thì thào.
***
Cả căn nhà giờ tràn ngập hương vị ngọt ngào tuyệt vời của bánh anh đào, với vẻ mặt háo hức và miệng ứa nước miếng, bọn trẻ nháo nhào lao vào phòng ăn. Ở đó họ thấy ngài Benedict, cô Rhonda Kazembe, Số Hai, vợ chồng ông bà Washington và mẹ con cô Perumal, tất cả đã tập trung quanh chiếc bàn ăn dài, những chiếc ghế bên trái để trống chờ bọn trẻ và những người khách được mong đợi (mọi loại ghế được gom lại từ khắp trong nhà.) Moocho Brazos bận rộn sắp xếp đĩa, tách cà phê và trà, bình sữa. “Năm phút nữa thôi,” anh nói khi bọn trẻ ào vào. “Nhân đây, ngài Washington, nếu ông có lúc nào...” Anh đưa cho bố của Sticky một cái nắm cửa. “Tôi rất tiếc, những thứ cũ kĩ này có những ốc vít quá yếu... “
“Không sao,” ngài Washington vui vẻ nói. “Tôi sẽ lắp lại nó trong nháy mắt ấy mà.”
Moocho cảm ơn ông rồi quay lại bếp.
“Đây không phải là chiếc tay nắm thứ hai trong ngày đấy chứ?” ngài Washington hỏi.
“Tôi tin rằng ông ấy cũng phấn khích như tất cả chúng ta thôi,” cô Rhonda vừa nói vừa chào đón bọn trẻ với những cái ôm nồng ấm, dù cô đã làm thế tới cả trăm lần từ lúc chúng quay về. “Sau tất cả những ngày lo âu, trống vắng, giờ cảm thấy như một dịp kỉ niệm!”
Constance vẫy vẫy tay điên cuồng như thể bị ong đốt, nhưng cô Rhonda bất chấp cứ quyết ôm cho được cô bé.
“Nếu cô nghĩ cô đang rất phấn khích,” Kate nói, “hãy chờ đến lúc nếm món bánh của Moocho. Cháu nên tới hỏi bố Milligan xem ông có muốn ăn kem với bánh không.”
Rhonda đằng hắng giọng. “Cô, e hèm, vừa ngó qua ông ấy, Kate ạ. Ông vẫn còn ngủ.”
“Vẫn ngủ ư? Cô nghĩ ông ấy ngủ thật, hay lại đang giả vờ thế?”
Rhonda trao đổi ánh nhìn với ngài Benedict, ông vẫn ngồi im lặng đầy bí hiểm. Một vài ngày trước, Milligan trở về từ bệnh viện, nghỉ ngơi và dưỡng bệnh ở nhà ngài Benedict. Ông trông gần như một xác ướp, toàn thân bị băng bó và ốp khuôn đỡ, và không được rời khỏi giường, nhưng ông không cần có thêm y tá ân cần chu đáo - hay chỉ là y tá đơn thuần vào lúc này - khi có bạn bè và gia đình cùng trong ngôi nhà. Hơn nữa, bọn trẻ cố gắng giúp Milligan tiêu khiển bằng cách chuyện trò, hát hò, đọc sách cho ông nghe (Constance còn ngâm vài bài thơ, gồm cả bài có tên “Một nhận định sai lầm mong manh trong tăm tối”), thậm chí còn diễn cả kịch. Bọn trẻ cứ làm các trò đó từ lúc ông quay về, hầu như không ngừng nghỉ, và Milligan phải giả vờ ngủ thiếp đi để có lúc được nghỉ ngơi.
“Cô cho rằng hẳn có thấy ông liếc nhìn cô giây lát,” Rhonda nói thêm. “Nhưng cháu biết đấy, đó là vì... “
“Ổ, sợ thật,” Kate ngắt lời, đã ra tới cửa. “Ông sẽ không muốn bỏ lỡ món bánh của Moocho đâu nhỉ?”
Reynie chiếm lấy một chiếc ghế giữa cô Perumal và bà mẹ của cô, cả hai vỗ về cậu trìu mến. Họ không giữ được cậu đủ gần gũi mấy ngày nay - cô Perumal trông rất lo lắng mỗi khi cậu ra khỏi phòng - và Reynie bị vỗ về thường xuyên đến nỗi cậu lo rằng mình sẽ bị nghiền ra thành bột mất. (“Nghĩ mà xem cháu may mắn lắm đấy nhé,” cô Perumal vừa nói hôm qua, khi cậu đùa đùa cợt cợt than vãn về điều đó, “rằng những cái vỗ không đặc biệt mạnh hơn nữa.” Rồi cô nhìn cậu với vẻ rất nghiêm khắc khiến Reynie phải tự nhủ rằng sau này không được đùa cợt kiểu đó nữa. Sự quay về của cậu được chào đón với nhiều niềm vui và vỗ về, nhưng cũng như Sticky, cậu thấy mình gặp kha khá rắc rối.)
Đi dọc chiếc bàn, Constance chiếm một chiếc ghế bên cạnh ngài Benedict, rồi ranh mãnh chộp lấy hũ đường (cô Rhonda vừa nhanh tay trượt nó khỏi tầm tay), cô bé tuyên bố rằng thuyền thưởng Noland và Đạn Thần Công vừa mới đến. Vợ chồng ông bà Washingtion và mẹ con cô Perumal tò mò nhìn sang cô bé, vì không thể nào cô bé có thể biết điều đó, và mẹ cô Perumal nói khá to rằng chắc bà nghe nhầm điều Constance vừa nói - có phải cái gì đó về đất trũng và súng ống gì phải không? - nhưng Sticky đi thẳng ra cửa sổ. Cậu thấy ông Bane đang bực bội cạo phân chim ưng trên cánh cổng, còn Madge thì đang đậu trên cây du có vẻ rất hài lòng, nhưng không thấy thuyền trưởng hay Đạn Thần Công đâu. Kéo chiếc ghế ra chỗ cửa sổ (vì bàn tay còn bị băng bó, cậu phải dùng cánh tay vụng về ghì lấy nó), Sticky trèo lên để nhìn dễ hơn.
“Cháu chưa thấy họ,” cuối cùng cậu đáp.
“Ổ, họ đã vào trong rồi,” Constance thản nhiên nói. “Ông Bane đã để họ vào. Dù rằng ông chẳng mấy vui vẻ khi làm thế, nhưng cháu đồ rằng ngài Benedict nhắc ông phải làm.”
“Quả là ta có nhắc.”
Sticky cáu kỉnh. “Em để anh lôi chiếc ghế ra và nhìn ngó loanh quanh mặc dù em biết họ không có ở bên ngoài ư? Sao không nói cho anh biết hả?”
“Bởi vì thấy anh làm thế rất vui,” Constance bướng bỉnh đáp.
Mẹ con nhà Perumal và ngài Washington trông có vẻ càng thêm bối rối với mấy việc này, nhưng bà Washingtion thì bị xao lãng vì hành động có thể chuốc lấy nguy hiểm của Sticky. “Trèo xuống đó ngay trước khi con bị ngã,” bà vừa nói vừa miết tay lên trán. “Con làm mẹ lo lắng quá đi.”
Sticky định cãi lại, nhưng nghĩ nên thôi, và cuối cùng thở dài và bước xuống khỏi ghế ngay vừa lúc thuyền trưởng Noland và Đạn Thần Công xuất hiện ở cửa ra vào phòng ăn. Họ được đón chào vô cùng nhiệt tình, bởi chính sự trở lại vui vẻ của họ. Quả tình, sự hăng hái tự nhiên của Đạn Thần Công đã áp đảo hết mọi người, và lúc mọi người về lại chỗ ngồi, Sticky đang đội mũ của Đạn Thần Công, còn tóc của Reynie thì rối tung rối mù khủng khiếp. Cô Perumal đã được nghe kể rằng thuyền trưởng thích cà phê, đã chuẩn bị sẵn một tách từ ấm pha của người sành cà phê là Moocho Brazos. Thuyền trưởng Noland bày tỏ lòng cảm ơn rồi nhanh chóng làm một hớp. Ông mỉm cười - Reynie nghĩ đấy là một nụ cười quá gượng ép - rồi đặt tách cẩn thận xuống đĩa kê. Dù vẫn mỉm cười, thuyền trưởng rùng mình, nuốt xuống, rồi khen ngợi cà phê tuyệt hảo. Ông không động vào tách lần nào nữa.
Sau một hồi chuyện trò thân mật và huyên náo, ngài Benedict dùng chiếc thìa gõ gõ vào tách trà của mình. “Các vị vui lòng chú ý tới Phil được không? Tôi hiểu ông ấy bị thúc ép bởi thời gian, và ông có một vài điều muốn nói trước khi đi.”
Thuyền trưởng Noland nhìn suốt dọc bàn ăn. Dù ông vừa làm hỏng con tàu - và cả sự nghiệp yêu dấu của mình - ông dường như hết sức vui sướng, thậm chí hoàn toàn sung sức. Đồng thời, có dấu hiệu của sự bẽn lẽn trong điệu bộ của ông, điều này nhanh chóng được giải thích khi ông cất tiếng nói, “Nếu các vị cho phép, tôi có đôi lời xin lỗi - xin lỗi và giải thích. Đặc biệt là với cháu, Reynie ạ. Ta e rằng từ lúc chúng ta rời tàu cứu hộ, chúng ta đã quá bối rối mà chưa nói chuyện. Tôi mừng là bây giờ lại có dịp như thế này. À, và cả Kate nữa, thật đúng lúc!”
Kate bước vào phòng mặt mày cau có - cô vừa thất bại khi đánh thức Milligan khỏi giấc ngủ của ông - nhưng cô lại tươi tỉnh ngay khi thấy thuyền trưởng Noland và Đạn Thần Công. Sau màn chào đón qua lại nồng nhiệt, cô bé ngồi vào chỗ, rồi thuyền trưởng bắt đầu lại bài diễn thuyết của mình.
Ông lần lượt nhìn từng đứa trẻ một. “Ta hiểu rõ các cháu đã phải chịu đựng nhiều đau khổ ra sao khi tới chỗ vịnh mà Đường Tắt chưa tới nơi. Ta muốn các cháu hiểu cho rằng sự chậm trễ đó không phải vì do dự, thiếu quyết đoán. Ta chỉ đơn giản nghĩ rằng chúng ta tới lúc đó là thích hợp nhất. Lời nhắn của Reynie báo rằng sẽ gặp các cháu trong hai tiếng đồng hồ. Ta đã sợ rằng nếu bọn người đuổi theo các cháu chưa tìm thấy các cháu, Đường Tắt mà đến sớm có thể lại mách chỗ cho bọn chúng. Chính các cháu cũng thấy đấy, không có lối vào kín đáo nào để đáp một con tàu đi biển cỡ lớn như thế. Thế nên mặc dù ghét phải chờ đợi, có lẽ sáng suốt hơn cả là làm theo chỉ dẫn của Reynie. Dĩ nhiên, nếu bọn ta tới quá muộn, chúng ta định sẽ lên bờ chiến đấu vì các cháu.”
“Thật may là việc không diễn ra như thế,” ngài Benedict nói.
“Quả thế,” thuyền thưởng tán thành, tới đây nét mặt ông trở nên quá nghiêm nghị. “Ta phải nói rằng, Reynie ạ, ta rất vinh dự vì cháu đã tin tưởng ta sẽ tới. Vô cùng vinh dự, và không có chút ngạc nhiên nào. Ta tưởng rằng cháu đã kể với các bạn về cuộc trao đổi giữa chúng ta trong cabin, cái vụ dính dáng tới kim cương giả?”
“Rất tiếc, cháu biết ông đã bảo cháu giữ kín chuyện đó giữa chúng ta thôi,” Reynie giải thích, “nhưng trong hoàn cảnh...”
“Đừng xin lỗi ta,” thuyền trưởng Noland vội vàng ngắt lời. “Ta mới là người phải xin lỗi. Lúc hồi tưởng lại, cháu thấy đấy, ta nhận ra rằng quả là việc làm của một kẻ thiếu suy nghĩ khi đưa cho cháu thứ đồ giả đó và bảo cháu phải giữ bí mật. Ta hẳn khá giống kẻ vô lại, nhất là với tất cả những kẻ len lén xung quanh và những cánh cửa đóng kín và bao nhiêu đồ lỉnh kỉnh.”
“Cháu đã thắc mắc về điều đó,” Reynie thừa nhận.
“Ta đã lo lắng khi để cháu vào cabin của ta,” thuyền trưởng Noland nói. “Nếu ngài Pressius thấy cháu, lão hẳn sẽ phản đối rằng cháu làm lãng phí thời gian của ta - đó là cách lão vẫn cứ hay nhìn vấn đề như thế, cháu hiểu chứ. Khi ta dặn cháu giữ bí mật về kim cương giả, chà, ta có một lời giải thích, mặc dù khó mà là lời xin lỗi được. Sự thực là ta đã bảo ngài Pressius cho hết cả bốn đứa bọn cháu số kim cương giả. Ta muốn cho bọn cháu quà lưu niệm đó như là một lời bày tỏ sự ngưỡng mộ và cảm tạ của ta. Nhưng ngài Pressius từ chối, thay vào đó lại đề nghị bán chúng cho ta với một cái giá - mà ta cho rằng cao cắt cổ mà ta khó chi trả được. Ta cực kì xấu hổ phải kể với các cháu điều này. Suốt chuyến hành trình đó ta đã không làm được điều tốt đẹp gì.”
“Đó chỉ là hiểu lầm thôi,” Reynie nói ngắn gọn, không muốn chỉ rõ rằng việc hiểu lầm này có thể nghiêm trọng đến mức nào. Thuyền trưởng, giờ đã hiểu ra, chưa bao giờ nghĩ rằng Reynie lại nghi ngờ thứ đồ giả đó là một viên kim cương thật. Chắc chắn ông còn cảm thấy thật tồi tệ hơn khi biết Reynie mà lại nghĩ ông có khả năng cuỗm một một viên đá quý.
“Cảm ơn cháu vì đã nói thế,” thuyền trưởng Noland nói tiếp, “nhưng đó là một hiểu lầm mà ta phải tự lĩnh trách nhiệm, và ta chỉ có thể hy vọng tất cả các cháu tha thứ cho ta.”
Ngoại trừ có Constance - cô bé tuyên bố rằng cô đã tha thứ cho ông, ngay từ lúc ông yêu cầu thật tử tế - bọn trẻ hấp ta hấp tấp đảm bảo với thuyền trưởng rằng không cần thiết phải xin lỗi hay tha thứ gì hết. Rốt cuộc, chẳng phải ông đã phải hy sinh những thứ thân yêu nhất của mình vì bọn chúng đấy thôi, và còn có thể đòi hỏi ở một người hơn thế nữa sao?
“Nhân nói về chuyện đó,” Constance thắc mắc, “Sao ông không đau buồn nhỉ? Chưa có công ty nào trên thế giới này thuê ông làm việc ngay được vì ông vừa làm mắc cạn cả một con tàu. Làm thế nào mà ông lại vui vẻ thế?”
Hầu hết mọi người đều thắc mắc điều này, nhưng đấy là một vấn đề tế nhị nên không ai nỡ đả động đến. Khắp lượt bàn ăn, nhất loạt có những cái cau mày dành cho bình luận của Constance, như thể vài người vừa cắn phập phải lưỡi vậy. Thế mà thuyền trưởng Noland cứ cười toe toét, còn Đạn Thần Công với tay xuống xoa rối tung tóc Constance.
“Bởi vì ông ấy có một con tàu khác rồi, Constance ạ!” Thần Công nói oang oang. “Đó là lý do vì sao ông ấy lại vui tươi thế! Và ông cũng cho tôi một vị trí trên tàu. Thực tế, chúng tôi sẽ ra cảng trong một tiếng đồng hồ nữa, và tối nay chúng tôi sẽ ra khơi!”
Mọi người hoan hô và kêu lên kinh ngạc, và khi thuyển thưởng Noland đã nhận được hết lượt chúc mừng của tất cả mọi người, ông xoa xoa bộ râu và nói, “Đó là một tin đáng kinh ngạc, phải không? Chính tôi còn chưa tin được nữa. Vì lý do nào đó, ngài Pressius đã tung ra một thông cáo báo chí rằng ông chỉ thị cho tôi đưa Đường Tắt vào đất liền, rằng tôi đã hành động như một anh hùng xuất sắc và là một chuyên gia thành thạo tàu biển trong khi phục vụ cho nhân loại, và rằng ông biết rằng không có thuyền trưởng nào vĩ đại hơn trên thế giới này!” Thuyền trưởng Noland bật cười và lắc lắc đầu hết sức kinh ngạc. “Như mong đợi, các lời chào mời đến tới tấp sau đó. Đạn Thần Công và tôi đã phải chọn lựa rất nhiều.”
“Nhưng ngài Pressius không hề chỉ thị cho ông đưa tàu vào đất liền,” Kate hỏi. “Thế vì cái quái gì mà ông ấy lại nói thế?”
“Ông ấy không giải thích gì cho ta cả,” thuyền trưởng Noland đáp, đưa mắt tìm kiếm ngài Benedict. “Nhưng ông ấy có nói hớ hênh rằng ông ấy đã liên lạc với ngài, Nicholas ạ, và tôi lại âm thầm ngờ ngợ rằng tôi lại nợ ngài cuộc sống của mình một lần nữa. Ông dường như cứ nhất định khiến tôi mắc nợ ông.”
Ngài Benedict mỉm cười. “Không phải đâu, Phil. Tôi thực ra làm được rất ít, và tôi không mạo hiểm gì cả. Có sự tình cờ đến kì lạ, anh thấy đấy, có những điều có thể không sao biết hết được, như cái tin được giữ kín vì vài lý do nào đó: kim cương của ngài Pressius đã bị mất cắp.”
“Mất cắp ư!” Đạn Thần Công hét lên, quay sang nhìn thuyền thưởng Noland - ông dường như khá sững sờ. “Ý ngài là sau cùng, cả cái thùng toàn kim cương giả, đã được tăng cường an ninh, mà vẫn có người thực sự lấy cắp được chúng sao?”
Ngài Benedict nhướn cao mày. “Theo ý tôi, ngài Pressius mở một cuộc trình diễn lớn về việc bảo vệ chỗ kim cương chính là để hợp pháp hoá việc mất trộm. Nếu đã bỏ công khó nhọc đến thế để bảo vệ chúng, ông khó mà bị nghi ngờ là có dàn xếp với kẻ trộm. Tuy nhiên tôi có lý do để tin rằng, chính ông ta đã làm thế. Ngài Pressius sẽ nhận được một gia sản lớn tiền bảo hiểm mất kim cương - khá nhiều tiền đấy, thực tế còn hơn cả giá trị thật của chúng.”
“Ý ngài là ông ta sắp xếp vụ trộm để nhận tiền bảo hiểm ư?” Sticky hỏi.
“Nguồn tin của ta đặt giả thuyết như thế, và khi ta liên hệ với ngài Pressius, ông ta nhanh chóng xoè ra cho ta thấy viễn cảnh rằng Phil sẽ nhận được lời tiến cử nhiệt tình của ông ta. Điều kiện duy nhất của ông là ta tiếp tục giữ lấy sự hoài nghi đó cho riêng mình. Ông ấy dường như bị ấn tượng rằng ta thậm chí định chứng minh nó.”
“Nhưng ngài không làm phải không?” Kate hỏi.
“Ta không có chứng cứ nào cả,” ngài Benedict đáp. “Nhưng ta lờ đi không nhắc đến nó với ngài Pressius.”
Đạn Thần Công cười ha hả. “Ngài đã đánh lừa được ông ta một cú rồi! Hoan hô, ngài Benedict! Lão ễnh ương đó đáng nhận cú đó, tôi đoan chắc với ngài thế.”
Mọi người cười toáng lên, ngoại trừ bà mẹ của cô Perumal, bà cụ dường như giật nảy mình và đưa tay lên tai. “Có chuyện gì với con ễnh ương thế?”
Reynie cúi gần vào bà rỉ tai. “Cháu sẽ giải thích sau, bà Pati.”
“Nhưng còn ngài Pressius thì sao?” Constance hét lên phẫn nộ. “Ngài thực sự để ông ta chuồn đi với trò gian lận đó ư?”
“Có lẽ là ông ta hiểu lầm quan điểm của ta về vấn đề này,” ngài Benedict đáp với nụ cười tinh quái. “Dẫu vậy, ta sẽ cần bắt đầu thận trọng hơn. Có...”
“Chà chà!” ngay lúc đó một giọng nói trầm trầm kêu lên, rồi Moocho Brazos lao bổ vào phòng, hai cánh tay vạm vỡ của anh vác một chiếc đĩa khổng lồ đựng toàn bánh nướng nóng hổi. Cả một tràng vỗ tay vang lên khi anh xuất hiện, và mọi tranh luận về những vấn đề nghiêm trọng bị bỏ rơi lại khi cả nhóm hăm hở thưởng thức những chiếc bánh ngon tuyệt diệu. Thuyền trưởng Noland và Đạn Thần Công buộc phải vội vã ăn phần bánh của mình - họ phải ra bến cảng - sau khi liếc nhìn tiếc nuối mấy chiếc bánh còn lại, họ đẩy ghế đứng dậy và gửi tới mọi người lời chào tạm biệt thân ái.
Sau khi hai người đi rồi, mỗi người cũng đã ăn ít nhất là một lát bánh, cuộc nói chuyện trở lại đề tài về vụ lừa đảo kim cương của ngài Pressius. Reynie muốn ngài Benedict giải thích làm thế nào ngài biết được chuyện đó. “Ngài nhắc đến một nguồn tin,” cậu hỏi ông. “Nhân vật đó có phải là một bí mật không ạ?”
“Thực tế thì cháu biết cô ấy rất rõ,” ngài Benedict đáp. “Tên cô ấy là Martina Crowe.”
Bọn trẻ há hốc mồm kinh ngạc. Chúng đồng loạt hỏi, làm thế nào mà Martina có thể biết chuyện ngài Pressius?
“Các cháu nhớ lại mà xem,” ngài Benedict kể, “Martina đã rơi vào sự giám sát của chúng ta sau khi em trai ta bỏ rơi cô ấy để tự cứu mình. Chậc, ta đã có một vài lần nói chuyện với cô ta từ lúc đó. Martina đã rất tha thiết đáp trả lại sự phản bội của em trai ta - ta phải thừa nhận, cô ta là mẫu người thù hằn rất sâu sắc - nên đã kể cho ta nghe mọi thứ cô ấy biết về kế hoạch của ông ta. Thật không may, mặc dù cô ta từng là Điều hành viên đáng tin cậy nhất của ông ấy, thì ông ta lại chẳng mấy tin tưởng cô nàng và thậm chí cho cô ta biết rất ít thông tin. Tuy nhiên, cô ta đã mang máng biết về vụ sắp đặt với một thương gia đá quý sẽ mang lại cho em trai ta kha khá tiền bạc.”
“Đừng nói rằng chỗ kim cương đó bị lấy cắp bởi một cặp trông ngớ ngẩn nhưng ăn mặc bảnh bao, tay xách vali chứ,” Kate thốt lên.
Ngài Benedict gõ gõ vào mũi. “Thực tế lại thế đấy, Kate ạ. Thế nên có vẻ như em trai ta đang giữ một khoản tiền đáng kể để duy trì hoạt động. Dẫu thế, chúng ta vẫn có lý do để được khích lệ.”
“Được khích lệ ư?” Constance cau mày thắc mắc, còn mấy đứa trẻ kia cũng thể hiện nét mặt hồ nghi tương tự. “Liệu điều gì có thể khích lệ được sau tất cả mấy chuyện này?”
Mắt ngài Benedict nhấp nháy, ông trông có vẻ thích thú vì được hỏi. “Chớp lấy những lời cung cấp của Martina, chẳng hạn như, đó có phải là ví dụ chính xác về việc những hành động thậm chí tệ hại đến thế nào cũng có thể dẫn dắt tới một vài điều tốt đẹp, chỉ cần chúng ta đủ khéo léo tận dụng nó?”
Sau một hồi lưỡng lự, bọn trẻ nói chúng cho rằng điều đó quả có đúng.
“Và ta nhận ra rằng không thiếu những điều độc ác trên thế giới này,” ngài Benedict nói, nhìn sang Reynie đầy ẩn ý, “nhưng chẳng phải là sự khích lệ đó ư khi biết rằng vẫn có nhiều người sẵn sàng đấu tranh cho sự tốt đẹp? Hãy nhớ tới cô thủ thư trẻ tuổi, Sophie, người phần nào tham gia giúp các cháu trốn thoát. Hãy nghĩ tới S.Q., người mạo hiểm trước cơn thịnh nộ của em trai ta để giúp ta thoải mái hơn, và tất cả những người khác nữa - kể cả những người lạ, không quen biết - những người sẵn sàng hy sinh sự an toàn của họ, thậm chí cả mạng sống của họ, để bảo vệ chúng ta. Chẳng phải, điều đó có ý nghĩa đấy sao?”
Không đứa trẻ nào có thể cãi lại điều này, thậm chí cả Constance, dù cô bé vốn hay tranh cãi về mọi điều. Xét cho cùng, nó quả là có ý nghĩa.
Ngài Benedict giơ tay ra dấu với tất cả mọi người ngồi xung quanh bàn. “Và mặc dù chúng ta chưa bao giờ muốn các cháu phải vượt qua những chuyện như thế, các cháu thực sự đã cứu sống ta, mặc dầu gặp biết bao điều kì quái khó tin đó ư? Các cháu chẳng phải đã chứng tỏ một lần nữa mình là những đứa trẻ dũng cảm nhất, tháo vát nhất trên thế giới đó ư?”
Bọn trẻ phải thừa nhận rằng chúng thấy ý kiến này là dễ thương hơn hết thảy.
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét