Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict
Bộ Sách: Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict (tập 2)
Tác Giả: Trenton LeeStewart
Thể Loại: Kỳ ảo, Huyền bí, Văn học phương Tây
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.comThế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart |
Chương 15: Cuối cùng cũng bắt kịp
Bọn trẻ nghe thấy tiếng cửa trước va vào cái bàn ở lối đi, và mùi nước hoa co-lô-nhơ tràn vào phòng. Một tấm ván sàn kêu cót két. Và sau đó một người đàn ông cao lớn xách cặp táp đứng dựa lên khung cửa trống nhìn chúng. Gã Số Mười mặc một bộ vét màu xanh sáng, có nước da trắng nhợt nhạt, mái tóc đen nhánh và gầy nhom, hơn thế đôi môi hắn tái nhợt như thể vừa mất rất nhiều máu hoặc mới được giã băng. Đôi mắt sáng tối màu của hắn quét quanh căn phòng, nhìn tấm đệm, những cái gối và khăn lanh trải giường la liệt trên sàn. Hắn cười với bọn trẻ, để lộ hàm răng trắng hoàn hảo. “Dễ thương, dễ thương quá, những chú gà con, các ngươi vừa bới tung mọi thứ lên, phải không? Mấy đứa đang tìm gì sao?”
Bọn trẻ nhìn hắn ta chằm chằm, không dám di chuyển hay mở lời.
“Đừng giả bộ bọn mày không nói được tiếng Anh nhé,” Gã Số Mười nói với một cái nháy mắt. “Tao đã nghe nói về bốn đứa mày. Bây giờ, Constance, hãy tỏ ra dễ thương bằng việc đưa cho tao tờ giấy trong tay. Tao muốn xem nó. Còn mày, Kate – mang cho tao bất cứ thứ gì mày dấu sau lưng.” Hắn chìa bàn tay, bên không cầm cặp táp ra. Nó vươn ra đến nửa quãng đường, thật là một cánh tay dài khác thường, và những ngón tay gầy guộc, tái nhợt của hắn mở ra nắm vào trông như một con nhện đang hấp hối vậy.
Constance rên rỉ. Cô bé nhìn thẳng vào mắt Gã Số Mười, và thấy bản thân mình khiếp sợ. Nắm chặt bức thư của ngài Benedict hết mức có thể, bàn tay của cô bé run run. Đằng sau Constance, Kate đứng hơi thu mình, sẵn sàng phản ứng lại bất cứ chuyển động bất chợt nào.
Dẫu vậy, Gã Số Mười không hề cử động bất ngờ. Ngược lại, hành động của hắn khá thư thái và có phần ung dung. Với một tiếng tặc lưỡi chê trách, hắn rút tay lại và đặt cái cặp xuống. Cánh tay của hắn quá dài nên chỉ cần hơi nghiêng người là cái cặp chạm đất. “Được, được, tao nhìn thấy trong mắt mày, chú cáo bé nhỏ, rằng tao có thể bị cắn nếu tiến lại gần. Mày có những ý định gì phải không?”
“Cứ thử xem,” Kate nói qua hàm răng cắn chặt.
“Cô ấy không có ý đó đâu,” Sticky nói.
Gã Số Mười cười thầm. “Ồ, tao không nghi ngờ điều nó nói. Danh tiếng đã đi trước nó, Katie yêu quý. Bây giờ, mày có tin rằng nếu tao làm một ví dụ với mày, những đứa kia sẽ biết cư xử không?”
Hắn lắc cánh tay, để lộ hai cái đồng hồ lớn bằng bạc bên dưới cổ tay áo. Tiếng điện chập vang khắp phòng.
“Ông không được làm thế!” Reynie hét lên. “Đừng làm đau bạn ấy! Chúng tôi sẽ đưa ông chỗ giấy tờ!”
“Ồ, tất nhiên, tao biết bọn mày sẽ đưa ta tờ giấy,” Gã Số Mười nói đầy chế giễu. Hắn hướng hai bàn tay nhện đến Kate. “Nhưng một khi tao đã bắt đầu làm gì, mày thấy đấy, tao thích họ...”
Kate bật mạnh.
Một cú đánh trực tiếp là điều Gã Số Mười không mong đợi, và Kate lao tới xô hắn vào chồng ga giường làm một cái gối bị hất tung lên. Một giây sau nơi đó vang lên tiếng va chạm giữa hai tia điện vào cái gối mà Kate đang cầm trên tay như một chiếc khiên.
Reynie nhìn những tia điện đung đưa như lưỡi rắn khi chúng phóng ra từ cái đồng hồ đeo tay của Gã Số Mười. Cùng lúc đó, cậu nhìn thấy Kate giơ tay kia ra – cánh tay cô bé đã giấu sau lưng – và vung về phía mặt gã đàn ông. Reynie đã nghĩ cô bé giấu tờ giấy có địa chỉ bên tay này. Nhưng đó là một lọ nhỏ, chứa thứ gì đó mà cô bé hắt vào mắt Gã Số Mười.
“Tôi hy vọng ông thích nước chanh!” Kate nói khi Gã Số Mười ôm lấy mặt mình. Liền đó, cô bé thả cái lọ xuống, túm lấy cái cặp và ném nó ngang qua phòng đến chỗ Reynie, cậu đang nhìn nó đầy hoang mang. Reynie không phải đứa trẻ có khả năng vận động cao nhất, nên cậu cảm thấy thật may mắn khi có thể di chuyển người kịp thời để đỡ lấy cái cặp trước khi nó va vào răng mình. Cái cặp khá nặng và Kate đã quăng nó với một lực rất mạnh.
“Reynie!” Kate hét lên. “Vứt nó ra ngoài CỬA SỔ!”
Gã Số Mười, dù tạm thời không nhìn được, nhưng hắn dùng tiếng nói của Kate để định hướng, vồ lấy túm tóc của cô và giật cô bé ngã về phía mình. Hắn suy nghĩ tỉnh táo hơn khi cô bé bắt đầu đá vào ống quyển của hắn, và sau một trận ẩu đả ngắn hắn tung cô bé ra xa mình. Kate bật người vòng quanh như một con mèo, nhưng cô bé tiếp đất một cách khó khăn trên cái giỏ của mình, không có đệm, nệm ngồi hay gối chỗ cô ngã xuống, cô bé chắc gãy xương sườn mất. Nhăn mặt vì đau đớn, cô bé nhìn Reynie quay lại từ cửa sổ, vẫn giữ chặt cái cặp. “Reynie! Tại sao...”
“Lề đường bên dưới quá đông người,” Reynie nói. “Tớ không thể vứt nó xuống. Nó có thể giết chết ai đó.” Cậu nói giọng nửa xin lỗi, nửa sợ hãi vì suy nghĩ của mình. Cậu không muốn gì hơn ngoài việc thoát khỏi cái hộp kinh dị này vậy mà giờ đây cậu ôm nó khư khư như thể ôm kho báu của mình vậy. Tiếng o o phát ra từ trong cái cặp, nghe như tiếng một bầy ong đang giận dữ.
Kate nhăn nhó. Tất nhiên Reynie không thể liều lĩnh với nó, cô bé nên nghĩ đến điều đó. Cô hy vọng cái cặp quá quý giá khiến Gã Số Mười phải chạy tới lấy lại, và bọn trẻ sẽ có cơ hội bỏ trốn, thay vì cô bé bắt buộc phải vồ lấy và bỏ chạy. Gã Số Mười sẽ phải đuổi theo cô, và những đứa khác có thể bỏ chạy. Bây giờ chúng đã mắc kẹt – và Kate đã ở ngoài cuộc chơi.
Gã Số Mười đã lau sạch nước chanh và nhìn chúng từ bên kia căn phòng. Đôi mắt hắn sưng húp và đỏ ngầu, và hắn không cười nữa. “Tao đã nghĩ đúng về mày, đồ con vịt. Mày đã cắn tao. Nhưng nó sẽ không xảy ra lần nữa đâu.” Những ngón tay của hắn sờ lên cái cà vạt trông như một con nhện nhiệt đới tái nhợt trụi lông. Với một chuyển động nhẹ nhàng, thuần thục, hắn kéo cà vạt khỏi cổ áo, để lộ một sợi tua rua mỏng bằng kim loại ở đuôi cà vạt giống như một sợi roi da dài.
“Tôi đã nói chúng tôi sẽ đưa ông các giấy tờ,” Reynie nói một cách khó khăn. Miệng cậu khô khốc. “Và tôi sẽ trả ông cái cặp. Làm ơn hãy để chúng tôi đi.”
'“Ồ chậc chậc,” Gã Số Mười nói. “Mày có chắc đó là hành động thông minh không? Và mày thực sự nghĩ tao sẽ để cho bọn mày đi sao? Sau sự đối xử thô bạo như vậy á? Ồ, không đời nào, Reynard. Những đứa trẻ hư phải bị trừng phạt.” Hắn vẩy nhẹ cái cà vạt, tạo một tiếng vút khủng khiếp khi nó quật sang phía bên kia phòng và làm vỡ một mảng vữa trên tường, gần đầu Sticky. Bọn trẻ ngần ngại, đặc biệt là Sticky – người khá yếu ớt – Gã Số Mười bĩu môi cười khinh bỉ. “Điều này để cho bọn mày thấy rõ hoàn cảnh của mình.”
Tâm trí của Reynie đang chạy đua. Gã Số Mười đứng đó giữa chúng và lối ra, dù chúng có vượt qua hắn – điều không thể xảy ra – Reynie đã nhìn thấy một Gã Số Mười mặc vét khác, nấp trong lối ra vào bên kia cửa. Gã Số Mười có một cộng sự. Trông thấy hắn cũng không khiến Reynie khiếp sợ hơn (cậu đã sợ đến hết mức có thể rồi), nhưng nó giúp cậu hiểu, đầy đủ và hoàn toàn, rằng không có đường trốn khỏi đây, và rằng cậu cần đứng vững trước những điều sắp tới.
Cố gắng đứng dậy trên đôi chân mình, Kate cũng đã nhận ra điều tương tự. “Tốt thôi,” cô bé cay đắng nói. “Hãy làm điều tồi tệ nhất của mày đi. Dù vậy, mày sẽ nhận được một phát cắn nữa. Cả hai bọn mày. Tao hứa đấy.”
“Cả hai bọn tao ư?” Gã Số Mười cau mày nói. Hắn đột ngột nhìn ra lối đi vào. “Tại sao mày không canh thang...” Mắt hắn mở to. “Mày không phải Mortis!”
“Ta hy vọng là không,” người đàn ông khác nói.
“Mày đã làm gì với Mortis?” Gã Số Mười gầm gừ, quay ra phía cửa và giơ cái cà vạt–roi của mình lên.
“Ta sẽ chỉ cho ngươi xem,” người đàn ông kia nói, và cùng lúc đó, một tiếng thổi kỳ lạ vang lên – swit! – và đuôi một cái phi tiêu nhẹ nhàng xuất hiện trên vai Gã Số Mười.
Gã Số Mười giận dữ vồ lấy cái phi tiêu. Nhưng hắn đã không có đủ thời gian để nhìn thấy nó trước khi ngã xuống sàn.
Người đàn ông kia đi vào phòng, bước qua cơ thể bất tỉnh của Gã Số Mười, và quỳ xuống giang tay ra. Kate lao vào người ông.
“Ồ, bố Milligan!” cô bé òa khóc. “Ôi, Milligan, bố đây rồi!”
***
Milligan đang ở đây, dẫu vậy ông khó thấy hết được niềm vui sướng mà bọn trẻ đang quây lấy ông đầy phấn khích. Và khi ông đã có chút tự do cho riêng mình sau vô số cái ôm, vỗ đầu, bắt tay và nụ cười, Milligan trông gần giống ông nhưng chỉ một chút thôi. Mái tóc vàng thường thấy lại có màu đen, đôi mắt xanh giờ là màu nâu, và tai ông, thật kỳ lạ, dường như ngắn hơn. Nước da hồng hào khỏe mạnh của ông vẫn vậy, ông vẫn có cùng chiều cao và dáng người gầy cao lêu nghêu, nhưng nếu nhìn chăm chú, những người biết ông cũng thật khó nhận ra.
“Con đã nghĩ bố là một Gã Số Mười khác!” Kate nói. “Con không thể tin con đã không nhận ra bố!”
“Con đang tập trung vào mối nguy hiểm trước mắt mà,” Milligan nói. Đôi mắt ông long lanh. “Nghe giọng con hết sức khủng khiếp. Bây giờ, nghe này, tất cả các con, cảnh sát đang đến đây và chúng ta không có thời gian đối phó với họ. Chúng ta cần ra khỏi đây. Nhanh lên nào!” Ông cầm lấy cái cặp táp của Gã Số Mười từ Reynie, cậu đang trao cho ông cầu xin giúp đỡ.
“Cảnh sát đang đến ạ?” Sticky hỏi.
“Nhanh lên,” Milligan nhắc lại, bước qua người Gã Số Mười.
“Chú định để hắn nằm đây sao?” Constance nói. “Chú không định trói hắn lại hoặc làm gì khác sao?”
Milligan quay lại thấy Constance đang chăm chú nhìn Gã Số Mười nằm trên sàn, e sợ bước qua gã. “Thứ lỗi cho ta,” ông nói, quay lại và nhấc cô bé lên. “Nhanh lên, tất cả các con. Và làm ơn đừng buộc ta nói lần nữa.” Ông bế thốc Constance đi.
Ở cuối hành lang, bọn trẻ có thể nhìn thấy chân một người đàn ông thò ra ngoài cửa thang máy, nó khiến cánh cửa cứ đóng đi đóng lại, chỉ va vào bàn chân rồi lại mở ra lần nữa và kêu ding một tiếng. Có thể đoán bàn chân đi giày màu đen đắt tiền đó là của cộng sự Gã Số Mười đang bất tỉnh kia.
“Chú không thể bỏ cái chân ra khỏi chỗ đó ạ?” Constance hỏi. “Tiếng ding đó khó chịu quá.”
“Đúng, nhưng nếu để thế, cảnh sát buộc phải dùng thang bộ,” Milligan nói, dẫn bọn trẻ theo đường khác. Họ nhanh chóng đi xuống một dãy hành lang khác và ở cuối đường có một khung cửa sổ đang mở, bên ngoài là một lối thoát cứu hỏa dẫn xuống hẻm bên cạnh. Sticky nhìn chằm chằm bên ngoài cửa sổ, và chỉnh lại cặp kính. Milligan đặt một tay lên vai cậu. “Đừng nhìn xuống đất. Hãy nhìn vào bàn chân cháu và cứ thế mà đi. Cháu sẽ ổn thôi. Kate, con đi trước và mọi người sẽ theo sau.”
Ngay sau đó, chúng nghe thấy tiếng cửa đập mạnh, theo sau là tiếng cảnh sát (tiếng hơi thở nặng nhọc khi họ leo cầu thang) ập đến từ dãy hành lang khác. Kate nhảy qua khung cửa sổ, từng bậc, từng bậc một đến khi cô bé nhảy từ vài bậc cuối xuống nền đất của một bãi đậu xe. Ngay sau đó, cô bé nhận ra đó là một xe cảnh sát.
“Vào trong, Kate,” Milligan gọi từ phía trên. “Đấy là xe của chúng ta.”
“Một xe cảnh sát.”
“Bố đã mượn nó,” Milligan nói. “Nhanh lên, các cậu bé.”
Reynie và Sticky bò xuống mấy bậc cuối của lối thoát hiểm cứu hỏa và nhảy vào ghế sau với Kate. Milligan đặt Constance ngồi ghế trước với mình. “Cúi thấp đầu xuống,” Ông nói, lùi xe ra khỏi hẻm. Khi ông lái xe ngang qua cửa trước khách sạn, ông thì thầm. “Ba xe cảnh sát. Tốt. Và người phụ nữ ngoài tiền sảnh chắc là người đã gọi cảnh sát. Cô ấy có vẻ quẫn trí. Hơi ngạc nhiên đấy.”
“Người phụ nữ nào ạ?” Sticky hỏi, vẫn cúi thấp đầu xuống.
“Một nhân viên lẽ tân. Cô ấy đã gọi cảnh sát và nói chúng đã hối lộ và đe dọa mình, và một vài gã xấu xa đang đến khách sạn. Cô ta lo chúng sẽ làm hại một nhóm trẻ em ở đó.”
“Sao chú biết được tất cả?” Constance hỏi.
Milligan nhìn cô bé chăm chú. Cô bé đang ngồi thẳng trên ghế trước – không giống mấy đứa trẻ kia, cô nhóc không cần cúi đầu – và Milligan nhăn trán khi một ý nghĩ lóe lên. “Cháu nên ngồi ở ghế cho trẻ em. Thật nguy hiểm quá.”
Constance nhìn ông ngờ vực. “Chú đùa à?”
“Một chút thôi. Cài khóa vào các con.” Vẫn giữ mắt quan sát đường, Milligan với tay kéo đai bảo hiểm của Constance xuống, vì chiều cao còn khiêm tốn mà cái đai bắt chéo qua mặt cô bé. Cô nhóc nhìn Milligan trừng trừng qua một bên mắt không bị che.
“Cứ tự do điều chỉnh nó,” Milligan nói, cười toe toét lệch cả miệng. “Bây giờ, để trả lời câu hỏi của cháu, ta biết hết vì ta nghe từ điện đàm cảnh sát. Tiếng Hà Lan của ta không hoàn hảo lắm, nhưng ta biết đủ các mánh lới. Và thật may chú đang đi quanh khu vực đó. Cảnh sát cũng nhắc đến các con trên điện đàm sớm nay. Họ nói các con vừa rời bảo tàng khoa học và nên mang về đồn để thẩm vấn. Bốn đứa có vẻ bận rộn.”
“Cháu rất vui vì chú đã tìm ra chúng cháu,” Reynie nói. “Mọi việc chẳng dễ chịu tẹo nào.”
“Ta xin lỗi đã không bắt kịp mấy đứa sớm hơn,” Milligan nói, nỗi ân hận hiện ra trên gương mặt ông. “Sớm hơn năm phút thì ta có thể giải thoát mấy đứa khỏi cuộc chạm trán đó – và ta tự giải thoát mình khỏi cảm giác lo lắng. Thật không may, ta đã bị cản trở nếu không đã gặp các con ở trên bờ Lisbon. Vấn đề là mấy đứa thông minh khủng khiếp. Ta không thể kể việc nhận ra các con không có ở trên đoàn tàu tới Thernbaakagen đã gây rắc rối đến mức nào.”
Lúc này, bọn trẻ đã ngồi thẳng dậy. Milligan đang lái xe qua một quận đặt kho hàng gần bến cảng. Tất cả ngoại trừ Constance, vì cô bé quá thấp, đều có thể nhìn thấy ánh sáng lung linh của Biển Bắc ở khoảng cách gần.
“Nhưng làm sao chú biết chúng cháu có mặt trên tàu?” Reynie hỏi. “Làm sao chú biết chúng cháu ở Lisbon?”
“Nghề của chú phải biết nhiều thứ.” Milligan nói giọng bí hiểm. Sau đó ông nhún vai. “Hơn thế, các cháu đã để lại quyển nhật ký hành trình của ngài Benedict.”
“Ổ!” Kate nói. “Thật may chúng ta đã để quên nó! Chị đã nói với em đó là việc tốt mà, Constance!”
“Đó là sự thật,” Milligan nói. “Khi ta đến nhà ngài Benedict, Rhonda đã phát hiện ra lời nhắn của mấy đứa, và chúng ta tìm thấy cuốn nhật ký ngay sau đó. Cũng mất khá lâu để biết được đầu mối, và khi chúng ta đến chỗ Đường Tắt, con thuyền đã hạ thủy rồi. Nhưng ta biết mấy đứa đang đi cùng những người tốt và thuyền trưởng Noland, và ta bắt một chuyến bay để đến Lisbon trước mấy đứa, nên ta đã không lo lắng gì đến khi Joe Shoorter – ý ta là Đạn Thần Công – thông báo với ta các con đang ở một mình trong lâu đài. Ta đã ngay lập tức chạy đến đó khi con gửi tín hiệu điện đàm, Kate ạ. Ta không thể hiểu một từ nào, nhưng âm thanh nền giúp ta biết các con đang ở sân ga.”
Milligan lắc đầu. “Ta chỉ chậm một chút. Ta đành đứng nhìn theo đoàn tàu rời khỏi ga. Nhưng lúc đó, ta đã bắt được Jackson và Jillson. Phải, chúng đang bị canh giữ,” ông đáp trả tiếng cảm thán của bọn trẻ. “Và cuộc nói chuyện khá tốt đẹp. Bọn chúng đều ngoan cố nhưng may thay chúng lại khá ngốc nghếch. Chúng nói với ta nhiều hơn chúng nghĩ, và ta đã suy ra chuyến tàu các con đi không hề nguy hiểm. Nên ta không lo lắng nữa rồi bắt ngay một chuyến bay – đại lý bán vé nói với ta các con đang đến Thernbaakagen – và một lần nữa ta đến trước các con. Nhưng ta đã không lường trước sự đề phòng của mấy đứa. Ta nên đoán ra các con sẽ xuống tàu ở một bến đỗ khác... A, thật hoàn hảo.”
Milligan lái chiếc xe cảnh sát khỏi đường và đi vào một nhà kho trống với những cánh cửa ngoài mở rộng. Tắt động cơ, ông quay lại để nhìn vào mắt bọn trẻ – đầu tiên là Kate, sau đó là những đứa khác và lại nhìn Kate lần nữa. “Các con đã dũng cảm làm điều các con đã làm,” ông nói thật chậm rãi. “Và ta biết các con đã làm vì tình cảm dành cho các bạn mình. Nhưng nếu các con còn làm thế một lần nữa, ta có thể hứa rằng Gã Số Mười và mấy tay Điều hành viên vẫn chưa nguy hiểm nhất đâu – mấy đứa hiểu không?” Thái độ của ông rất khắt khe, quai hàm bạnh ra, từ ngữ của ông ngắn gọn và kiên quyết như thể ông đang kiềm nén cơn giận của mình.
Kate bật cười. Đôi lông mày của Milligan chau lại, và Kate, nhìn thấy thế, càng cười lớn hơn. “Milligan,” cô bé nói “Con cá là bố có thể dọa nạt những kẻ xấu xa, nhưng khi là một người cha, bố chẳng dọa được ai cả.”
“Chị ấy nói đúng,” Constance nói. “Cháu có thể nói trông chú chẳng giận dữ chút nào.”
Milligan nhăn trán nhìn Reynie, nhưng Reynie quay đi để tránh làm ông ấy thất vọng – với cậu, cũng vậy, không hề thấy bối rối trước lời phê bình nghiêm khắc của Milligan. Chỉ có Sticky, hồi hộp lau cặp kính của mình ở ghế sau, biểu hiện của cậu đúng như Milligan mong muốn. Nhưng Sticky nhanh chóng mất tự tin và khó có thể quay lại giới hạn ban đầu.
“Được rồi,” Milligan nói, gương mặt giãn ra, “ít nhất là ta đã cố gắng.” Ông nhảy ra khỏi xe và để bọn trẻ ra ngoài hết. Sau đó, ông đi mở thùng xe, lấy ra một cái túi đồ nghề leo núi lớn và trong thùng còn có cái cặp táp của Gã Số Mười. Bọn trẻ theo dõi ông và chúng thấy ba cái cặp táp khác nữa ở bên trong. Milligan đóng sầm thùng xe lại.
***
“Nếu nơi này bị bỏ hoang, tại sao các cánh cửa lại mở ạ?” Sticky hỏi.
“Bị phá hỏng,” Milligan nói, cho tay vào bên trong áo khoác. Ông lôi ra một dụng cụ nhỏ gần giống con dao quân dụng, và trong vài giây ông đã làm điều gì đó với hệ thống dây xích và cánh cửa ngoài nhanh chóng đóng xuống.
Bên trong nhà kho bây giờ chỉ có màu xám tối, ánh sáng duy nhất xuyên qua các khung cửa sổ bẩn thỉu và một mảng cửa sổ vỡ trên trần nhà. Và mặc dù ban ngày trời ấm, kho hàng vẫn lạnh và Constance bắt đầu run lên. Milligan cởi cái áo khoác ngoài của mình và đắp lên đôi vai cô bé. Cái áo quàng quanh người cô bé dài xuống tận bàn chân giống như một cái áo choàng không tay vậy.
“Thời gian thay đổi nhanh quá,” Milligan nói, nhặt túi đồ nghề của mình lên. “Ta xin lỗi một phút.”
Kate đi theo ông vào một nơi giống như phòng quản lý nhà kho. Cô bé đã rất hạnh phúc khi gặp Milligan, cô không muốn bị chia cắt một phút nào nữa. Mặt khác, suốt thời gian trên xe cô bé đã rất muốn được ôm ông lần nữa – và bây giờ cô sẽ làm vậy, quàng tay quanh người ông và ôm chặt hết mức có thể. Milligan cau mày, nhưng biểu hiện của ông lúc nào cũng vậy mỗi khi Kate ôm, nên cô bé nghĩ không việc gì cho đến khi Milligan thay áo sơ mi và cô bé đã nhìn thấy người ông đầy những vết cứa và thâm tím.
“Đã có chuyện gì xảy ra vậy bố?” Cô bật khóc, nhìn chằm chằm.
“Hử?” Milligan nhìn xuống. “Ổ. Đó. Bố đã nói với con rồi, Katie cưng. Bố bị cản trở. Đó là lý do bố để lỡ các con ở Lisbon.”
Kate rất kinh ngạc. “Con đã nghĩ bố nói về giao thông! Hoặc, con không biết nữa, có một vấn đề khẩn cấp, một cuộc gặp tối mật hoặc thứ gì khác!”
“Đó là một cuộc chạm trán ngắn,” Milligan nói, khoác lên một chiếc áo sơ mi khác. “Ta từng có rất nhiều cuộc đối đầu. Không phải lúc nào cũng dễ dàng như lần trong khách sạn.”
Kate bỗng cảm thấy lo lắng cho Milligan hơn bao giờ hết, cảm xúc này thực sự rất khó chịu. Cô bé cảm thấy thật đáng khiển trách, suy nghĩ đó chợt lóe lên, nếu cô bé lo lắng cho Milligan thì Milligan cũng cảm thấy lo cho cô y như vậy. Thậm chí chắc chắn là hơn thế nhiều. Sau cùng, cô bé vẫn là con gái ông.
“Milligan,” Kate nói, “Con thực sự xin lỗi đã làm bố lo lắng.”
“Được rồi, con không thể có những suy nghĩ tốt hơn được,” Milligan nói, nháy mắt với con gái. “Tuy vậy, bố chấp nhận lời xin lỗi. Khi bố nghe tin con đã đi – đúng, bố biết con có năng lực, Kate, nhưng bố không tin là mình chỉ ngủ có hai tiếng trong nhiều ngày liền. Bố thừa nhận nó đã gây ra thiệt hại. Sau cùng, bố không phải là Số Hai.”
Lúc đó, khuôn mặt họ trở nên u ám, và Milligan đặt tay lên vai Kate. “Chúng ta quay ra thôi. Đừng để mọi người lo lắng.”
Những lời nói của bố giúp Kate cảm thấy thoải mái hơn – đến giờ cô bé không nhận ra mình có thể an ủi ông – và điều đó khiến cô bé bật khóc. Kate luôn nghĩ khóc là việc chấp nhận được ở người khác, nhưng cô bé không nghĩ việc đó lại xảy đến với bản thân mình, nên cô bé bước ra khỏi phòng quản lý và giả bộ kiểm tra tình hình các bạn. (Hai cậu bé đã mở thùng xe cảnh sát và nhìn trộm vào những cái cặp, trong khi Constance đang nhảy lò cò để giữ ấm.) Khi Kate không khóc nữa và quay lại với ông, Milligan đã hoàn thành việc thay đổi ngoại hình của mình.
Đi đôi bốt bạc màu quen thuộc, mặc một cái áo jacket, và đội mũ, Milligan không còn giống một điệp viên bí mật mà giống người vừa đi ra từ cửa hàng đồ cũ. Kate luôn ấn tượng với cách những bộ trang phục của ông che giấu cái thắt lưng tiện ích và khẩu súng an thần. Cô bé nghĩ một vài vết thương của ông bị sưng lên.
Milligan chỉnh lại cái mũ. “Trông bố thế nào? Giống bố hơn chưa?”
“Ngoại trừ mái tóc đen và đôi mắt nâu,” Kate đánh giá. “Và tai của bố trông nhỏ hơn. Chúng – con không biết nữa, để đẹp mắt hay điều gì khác.”
“À.” Milligan giật mạnh một dải băng trong suốt ở mỗi bên đầu. Tai ông nhảy về hình dáng bình thường. Sau đó, ông tháo hai kính áp tròng đổi màu ra, để lộ màu mắt xanh biển tự nhiên của mình – giống màu mắt của Kate – và cất kính áp tròng vào một hộp đựng nhỏ. “Tốt hơn chưa? Tiếc là phải mắc kẹt với màu tóc đen một thời gian nữa.”
Kate đang cười toe toét, phần vì trông bố ngày càng giống hồi trước, phần vì cô bé rất thích thú được ngắm nhìn cách cải trang của ông. “Bố đang cải trang thành người nào ạ?”
“Bất cứ ai trừ chính bố,” Milligan lặp lại. “Bố đang mang tiếng xấu trong giới vì bố có một sở thích không được ưa chuộng cho lắm, đó là thu thập các bộ đồ nghề không phải của mình. Nói về điều này, bố hy vọng các cậu bé không động vào mấy chiếc cặp trong thùng xe?
Lo bố phát hiện, Kate quay ra cửa phòng quản lý, nhìn Reynie và Sticky ra hiệu. Hai cậu bé gật đầu và cố gắng đóng thùng xe nhẹ nhàng hết mức. “Họ không đụng vào ạ.”
“Tốt,” Milligan nói, cầm cái túi đồ nghề lên. “Bố ghét phải nói nghiêm khắc với mấy đứa một lần nữa. Thật xấu hổ khi việc đó không có hiệu quả chút nào.”
***
“Điều các con nói khớp với những gì chú khai thác được ở Jackson và Jillson,” Milligan nói, khi bọn trẻ thuật lại mọi thứ chúng tìm hiểu được. “Điều chú ấn tượng là ngài Curtain có hệ thống Điều hành viên và những Gã Số Mười rải rác trên chuyến đi của ngài Benedict. Bọn chúng không có các manh mối cần tìm kiếm, vì không biết rằng ngài Benedict đã lên kế hoạch trước. Nhưng chúng vẫn để ý những điểm đáng ngờ.”
“Vậy lão Curtain chỉ như bắn súng trong bóng tối thối,” Sticky nói. “Và hy vọng sẽ tóm được điều gì hữu dụng.”
“Đó là việc lão đã làm,” Milligan nói. “Lão đã may mắn trong việc tìm loài cỏ đêm. Ta nghĩ mình khống cần nhắc điều đó nguy hiểm thế nào. Mọi nền hành pháp trên thế giới đều e sợ lão Curtain – đó là chưa có sự tác động của cỏ đêm. Nếu lão có cỏ đêm thực sự trong tay, nếu lão có thể đưa toàn bộ các thành phố đi vào giấc ngủ...”
“Nó sẽ là một ngày u ám,” Sticky nói dứt khoát.
“Nó sẽ là một đêm u ám,” Kate sửa lại.
Sticky bắt đầu huyên thuyên rằng khi đó sẽ có hiện tượng nhật thực toàn phần kết hợp với những đám mây trái mùa lớn, nhưng Constance đã cắt ngang lời cậu.
“Quên tất cả đi,” cô bé nói. “Còn ngài Benedict và Số Hai thì sao? Chúng ta chỉ còn ngày mai để tìm họ!”
“Đừng lo lắng quá,” Milligan nói. “Ta định tóm lão trước khi lão kịp hại hai người – và trước khi lão tìm ra nơi cỏ đêm mọc. Thời gian vẫn còn đủ, Constance. Chú hứa.”
“Sao chú chắc vậy?” Constance hỏi.
“Sớm nay ở sân bay, chú đã xác minh ngài Benedict và Số Hai đã bay đến đây từ Lisbon. Không có ghi nhận chuyến bay đi của họ nên có thể họ di chuyển đến đảo bằng thuyền và mặt khác, việc ông ấy cho các cháu địa chỉ một công ty vận tải đường thủy đã xác nhận điều này. Hòn đảo không xa lắm – có thể ở nơi nào đó trên Biển Bắc.”
“Nhưng các đại dương thông với nhau!” Constance bật khóc (cô bé biết điều này do thường quan sát mặt dây chuyển quả địa cầu). “Một con thuyền có thể đưa họ đến mọi nơi! Chúng ta biết họ đang ở một nơi khác trên thế giới!” Khuôn mặt cô bé đỏ lên – cô nhóc rất bối rối. Đối với cô bé, Milligan đã xác định mặt mấu chốt của vấn đề nhưng nếu lật ngược nó lại, nếu ông ấy đã sai, chúng không thể đến hòn đảo kịp lúc…
“Họ chưa đi lâu đến vậy, Constance,” Reynie nhẹ nhàng nói. “Không có con tàu nào đi nhanh bằng Đường Tắt đâu.”
Constance nhìn cậu một lúc, sau đó quay sang Sticky, người chắc chắn biết về khoảng cách trên biển và tốc độ tàu và nhiều thứ linh tinh khác.
“Đúng đó,” Sticky nói. “Hòn đảo không thể quá xa.”
“Được rồi, tại sao chẳng ai nói trước về điều đó?” Constance không cằn nhằn riêng ai, nhưng trông cô bé an tâm hơn.
Kate vỗ hai tay vào nhau. “Vậy chúng ta còn đợi gì nữa? Đi về phía cầu tàu nào.”
“Trên thực tế chúng ta đang ở đó rồi,” Milligan nói. “Dẫu vậy, ta cần trinh sát nó trước. Ta sẽ nhìn toàn cảnh từ mái nhà.” Ông đi về phía sau nhà kho nơi có một cầu thang gác dốc đứng và lung lay, dẫn lên một cánh cửa trên cao.
“Con cũng sẽ đi!” Kate nói, vội vàng chạy theo.
“Chúng ta sẽ cùng đi,” Reynie nói.
Milligan đi vòng xung quanh rồi ra hiệu cảnh báo. “Không, các con sẽ không đi. Những bậc thang này không chắc chắn. Các con ở đấy, ta sẽ quay lại sau một phút. Ta nghiêm túc đấy. Ở yên đây.” Gương mặt nghiêm khắc của ông như muốn nói đây là công việc, ông leo lên cầu thang và khuất sau cánh cửa trên mái.
Bọn trẻ đợi đến khi cánh cửa đóng hẳn và không còn nghe thấy tiếng Milligan nữa. Sau đó, chúng đi theo ông.
Mục Lục
0 nhận xét:
Đăng nhận xét