Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 14

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 14: Cuộc điện thoại, Tiền bạc và Vỏ bọc tai hoạ

Reynie tin chắc rằng hiện tại ngài Benedict và Số Hai đang đến hòn đảo cho dù nó ở bất cứ đâu đi nữa, và lão Curtain đang theo dấu họ. Mặc dù bọn trẻ cũng có thể theo họ đến đó, giữ nguyên đúng hướng đi này, nhưng có một điều chắc chắn: nếu chúng sai, thì sẽ không còn thời gian để vội nữa.
“Tớ xin lỗi! Tớ cần phải nghỉ đã!” Reynie hổn hển tấp xe đạp vào lề đường, thả xe trên bãi cỏ, cậu lảo đảo trèo xuống và nằm ngửa ra bên cạnh. Từ bắp chân đến bắp đùi cậu nóng rừng rực và hai lá phổi thì nặng trĩu; cậu chẳng thấy gì ngoài mồ hôi làm mắt mình cay xè. Chúng đã đạp xe như điên từ khi rời khỏi bảo tàng.
Nghe thấy tiếng động lạ cọt kẹt gần mình, Reynie dụi mắt và quay lại nhìn. Sticky nằm thở khò khè trên trảng cỏ gần đấy, một chân vẫn ở bên dưới cái xe đạp, trông như một kỵ binh vừa bị ngã ngựa trong trận chiến. Quá hết hơi không nói nổi, quá kiệt sức để xuống xe, cậu bạn đã theo Reynie lại chỗ bãi cỏ và dễ dàng thả người mình xuống.
Kate lại gần quan sát. Cô bé ngồi trên xe đạp – thật kì diệu khi cô bé có thể giữ thăng bằng mà không cần đạp – còn Constance thì ngồi trên cái giỏ. Cả hai cô gái đều tỏ vẻ thất vọng.
“Chúng ta cần nhanh lên, các anh biết mà.” Constance nói, cô bé đã từng không đồng ý đi cùng xe với Kate.
“Tớ nghĩ... Tớ sắp chết rồi,” Reynie hổn hển. “Các cậu cứ đi... không có tớ.”
“Cậu đùa à?” Kate hỏi đầy kinh ngạc.
Reynie gật đầu và kéo người ngồi dậy. Nhưng cậu thấy không thể thở được trong tư thế đó nên lại đặt lưng lăn kềnh ra. Constance cau mày tỏ vẻ không hài lòng. Đúng lúc đó, một phụ nữ nhiều tuổi đang dắt một con chó xù nhỏ đi dạo, đã dừng lại để nó đánh hơi người Sticky. Sticky chỉ nháy mắt với nó và há hốc mồm thở. Người phụ nữ lẩm bẩm gì đó với bọn trẻ bằng tiếng Hà Lan rồi bỏ đi.
Con đường từ bảo tàng về khách sạn là một con đường lớn, dài, thẳng tắp và khá nguy hiểm, nhưng để tránh sự chú ý (cảnh sát có thể đang tìm chúng) bọn trẻ dừng lại bên đường. Chúng đang ở trong một khu dân cư yên tĩnh. Bãi cỏ nơi các cậu bé nằm phịch xuống thực ra là một công viên nhỏ – một công viên ảm đạm, thật không may, chỉ vừa lớn hơn một chỗ đậu xe với một cái ghế đơn mục nát và một cây du tàn rụi.
“Tớ đang nghĩ,” Kate nói khi các chàng trai lấy lại hơi. “Nếu ngài Benedict có ý muốn Thernbaakagen là điểm đến cuối cùng của chúng ta thì sao? Nếu ngài ấy và Số Hai thực hiện một chuyến đi nhanh tới hòn đảo và định quay về trước khi chúng ta đến khách sạn thì sao? Rút cục, ông đã không biết về hòn đảo cho tới khi đến đây. Nó vốn không nằm trong kế hoạch ban đầu.”
Reynie đã nghĩ về điều này nhưng chỉ là đặt câu hỏi với bản thân thôi. Cậu không muốn làm Constance chán nản. Bây giờ, Kate đã nhắc đến nó, như cậu nghĩ, biểu hiện phiền muộn của Constance càng u ám hơn.
“Ông thật tuyệt khi đã đính hòn đảo vào chuyến đi của chúng ta,” Reynie nói nhanh. “Trong trường hợp đó, ông sẽ để lại một manh mối tại khách sạn. Nếu không, chúng ta có thể lần theo dấu Han de Reizeger – bạn của ông bà Benedict. Ông ấy chắc rất già rồi, nhưng...”
“Ồ,” Sticky nói, trông khá lo lắng, “Ừm, tiếc thật, Han thực sự đã rất già. Ông ấy đã chết lâu lắm rồi. Dì của ông Benedict đã nhắc đến trong thư.”
“Bà ấy nói thế à?” Constance hỏi, quay lại phía cậu ta. “Sao anh không nói sớm hơn hả?”
Sticky nghiến răng. “Bởi vì ông Schuyler đi vào trước khi bọn anh kịp nói, Constance.”
“Cậu có thể kể lại nó viết gì không?” Reynie hỏi.
“Chắc chắn rồi, nó được viết bằng tiếng Anh,” Sticky nói. “Tớ sẽ trích dẫn nó nhé? Hay là cậu làm... ?”
“Tất nhiên rồi,” Kate đáp “Cậu nhắc lại đi.”
Và Sticky đọc thuộc lòng lá thư.
Anki thân yêu,
Lần này em viết bằng tiếng Anh, không chỉ để chứng tỏ em đã thành thục nó thế nào – bây giờ em đã là một người Mỹ đúng nghĩa – mà còn để cổ vũ chị và Tiến sĩ Benedict tự luyện tập nhiều hơn, điều đó luôn khiến em thấy buồn cười khi hai người có thể nói mười thứ tiếng nhưng bù lại, tiếng Anh của hai người thật quá vụng.
Nhưng thứ lỗi cho em. Đầu tiên, em muốn nói lời chia buồn với mất mát của bạn anh chị – Han de Reizeger. Chị chắc thấy nhẹ nhõm hơn vì ông ấy cũng nhiều tuổi rồi. Và chẳng phải ông ấy đã sống hết mình cho những chuyến phiêu lưu suốt cuộc đời sao? Ông ấy không phải đã ra đi trên chuyến du lịch vòng quanh thế giới như ông luôn mong muốn ư? Liệu ai có thể may mắn hơn!
Em rất tiếc về vấn đề tài chính chị đề cập trong bức thư trước, Anki, nhưng em không thể giúp chị. Em biết chị không đề cập rõ yêu cầu giúp đỡ, nhưng em nghĩ điều đó ẩn trong bức thư của chị và em xin lỗi đã khước từ nó. Chị biết đấy, hoàn cảnh không ổn định hiện nay khiến em không giúp gì được cho chị. Em chỉ kiếm vừa đủ để trả tiền thuê nhà mà cũng không hẳn vậy, từ khi Thiedric mất nhiều năm trước. Nhưng anh chị mong muốn thực hiện chuyến đi đó bằng mọi cách ư? Nếu nó không quá nghiêm trọng, chị có buộc phải giữ kín nó bí mật với cả em gái mình không? Việc yêu cầu tài chính cho chuyến đi này phải kèm theo một lời giải thích rõ ràng thì mới hợp lý.
Bất chấp việc em cầu xin hai người đừng thử trải nghiệm những điều mà chị đã đề cập. Chắc chắn, chính phủ sẽ trả một số tiền kha khá nếu hai người đạt được thành công, nhưng anh chị có nghĩ đến khả năng xảy ra tai nạn không? Đấy chẳng phải là lý do những người khác từ chối chuyến đi này sao? Chị có thể nói rằng phần lớn họ thiếu khả năng chuyên môn như hai người, nhưng chắc chắn trên cả đất nước Hà Lan có nhiều nhà khoa học khác nhau có thể cùng thử làm một việc.
Về cá nhân, em tin vấn đề này dễ gây ra tranh cãi, nhưng em chẳng thấy cách nào khác để nói điều đó. Dù “mục đích cao cả” thế nào đi nữa, như chị đã nói trong bức thư của mình, dù bao nhiêu mạng sống sẽ được cứu chăng nữa, em đảm bảo với chị, không một ai có thể xui em thử làm việc như thế! Em tin rằng, đó là nguyên nhân, em không muốn trở thành một nhà khoa học. (Vì lý do đó và mặt khác vì khoa học là một công việc ngu đần – quá nhiều tiếng Latinh và quá nhiều các ký tự.)
Ít nhất, em cũng được an ủi khi anh chị dự định đợi tới lúc đứa bé chào đời. Nhưng vội vàng gì? Đứa trẻ đó, trải nghiệm đó, chuyến đi huyền bí đó nữa – chị viết như thể tất cả tới rất nhanh vậy! Hãy cho mình chút thời gian, Anki! Nghe lời em không bao giờ sai cả, em phải thừa nhận rằng, cách chị luôn viết thư với hai bàn tay cùng di chuyển như thể chị không muốn để mất một khoảnh khắc nào. Vẻ hấp tấp như vậy không hề thích hợp để một phụ nữ thể hiện ra ngoài, dẫu sao theo khoa học cô ấy có thể nghĩ mình là ai.
Bọn trẻ mất hết tinh thần. Bức thư này chẳng thú vị tẹo nào, và khi Sticky kết thúc việc đọc thuộc lòng của mình – thời gian nghỉ ngơi của chúng bị tiếng ồn ào của khu dân cư quấy nhiễu – Reynie băn khoăn liệu ngài Benedict nghĩ thế nào về bức thư này. Cậu hiểu ông ấy, ông chắc đã nhận thấy giọng điệu chế nhạo vẻ bề trên của dì mình; ngài Benedict không phải kiểu người thèm để tâm căm phẫn. Nhưng một lần nữa, Reynie nghĩ, ông hẳn rất thất vọng khi tìm thấy một ví dụ khác cho tính khó chịu của gia đình mình.
“Tớ tin rằng,” Kate nói khi Sticky kết thúc, “Họ giấu bức thư của bà ấy vì nó đề cập đến Han và chuyến đi bí mật mà họ dự kiến. Họ thực sự rất cẩn thận.”
“Vậy tại sao không hủy nó đi?” Constance nói. “Một bức thư xấu xa như thế! Chuyện gì khiến bà Anki giữ nó lại?”
Kate bật cười. Trong những bức thư ít ỏi mà Constance gửi cho cô, không một bức nào có vẻ thân mật, dịu dàng. “Chắc chắn giống lý do chị giữ các bức thư của em, nhóc Connie.”
Constance nhăn mặt, không biết câu nói của Kate là một lời xúc phạm hay lời tự thú trìu mến. Thực tế, cô bé nghĩ nó có thể là cả hai.
***
Nói đúng ra, Thernbaakagen không nằm trên bờ biển mà xa hơn một chút. Như nhiều thị trấn khác ở Hà Lan, nó nằm trên phần đất mà những người Hà Lan thông minh đã lấn biển. Tiếp giáp với Biển Bắc và bị chia nhỏ ra bởi vô số các kênh đào, thị trấn dường như nhiều nước hơn đất liền, và phần lớn nền thương mại của nó phụ thuộc vào đặc điểm này. Nghề cá, nghề đóng tàu, và giao thông đường thủy đã tạo nên Thernbaakagen, nếu không phải một thành phố rộng lớn thì ít nhất nó cũng là một thành phố thịnh vượng và tất bật, và khách sạn Regaal nằm ở trái tim khu buôn bán của thị trấn.
Reynie, Sticky và Constance có thể nhìn thấy tấm biển của khách sạn từ góc phố tấp nập cách đó hai khu nhà – nhưng chúng không nhìn tấm biển đó. Khi bọn trẻ đợi Kate chạy đi dò la, chúng đứng gần một xe bán thức ăn nhanh và nhìn chằm chằm vào tất cả thức ăn mà chảy nước miếng. Đặc biệt, mùi của những miếng khoai tây chiên khiến Reynie choáng váng một lúc lâu. Nhưng chúng đã tiêu những đồng tiền cuối cùng cho mấy chiếc xe đạp.
Một trong những chiếc xe đạp đó đang tiến tới thanh chắn, ngồi trên xe là một cô bé đeo kính với mái tóc hoang dại, cô đang cố gắng phanh xe lại và cẩn thận để không va vào xe thức ăn nhanh. Người bán hàng nhảy qua một bên để tránh và lo lắng nhìn những ngón chân mình, ông ta nói một câu tiếng Hà Lan cộc lốc, đầy bất bình.
“Người phụ nữ nhiều tuổi với con chó xù cũng nói như thế,” Constance thì thầm một mình và Reynie nghe thấy, cậu nhận ra cô bé nói đúng.
“Tớ đã nhìn thấy rất nhiều người ăn mặc bảnh bao, mang cặp táp,” Kate báo cáo, trả lại Sticky cặp kính và lấy lại cái giỏ của mình, “Nhưng không có Martina hay S.Q. Tớ nghĩ chúng ta đều không có lựa chọn nào khác, phải không nào?”
“Tớ tin là vậy,” Reynie nói, nhận thấy người chủ xe thức ăn nhanh đang để ý, cậu hỏi ông ta xem có thể trông hộ chúng mấy cái xe đạp không.
Sau khi nghe Reynie nói bằng tiếng Anh, thái độ khó chịu của ông ta nhạt dần – như thể vì một vài lý do, ông ta không thích trẻ con Hà Lan nhưng những đứa trẻ Mỹ thì có thể tha thứ được – và ông ta nói cộc lốc rằng sẽ làm thế nhưng bọn trẻ phải nhanh lên; ông ta không thể dùng cả buổi chiều của mình để trông xe cho chúng được. Reynie cám ơn ông ta, và với một cái gật đầu cụt lủn, ông ta đưa cho Reynie một túi tròn đầy những lát khoai tây nóng – chúng dày như những con cá hồi Pháp – và được bọc một lớp nước sốt như mayonnaise. “Ta thấy các cháu có vẻ đói,” ông ấy nói. “Nào, đi đi và nhanh lên.”
Bọn trẻ đi bộ chầm chậm về khách sạn, chia nhau ngấu nghiến khoai tây và để mắt đề phòng với những người đi ngang qua chúng. Lề đường ngập tràn khách bộ hành, nhiều người trong số họ trông thật thanh lịch, trang điểm rất chuyên nghiệp và mỗi khi có một doanh nhân mặc vét nhìn bọn trẻ khiến chúng thót tim. Chưa bao giờ đi bộ xuống phố lại căng thẳng đến vậy. Chúng chỉ yên tâm hoàn toàn khi đến khách sạn.
Khách sạn Regaal đã từng có những ngày tươi đẹp hơn bây giờ – nội thất đặt nơi tiền sảnh thì lung lay, sàn các tầng thì mòn vẹt, và mùi ẩm mốc phảng phất trong không khí – nhưng dù xếp phía sau các khách sạn hiện đại, nó vẫn đang làm tốt nhất công việc của mình để giữ vẻ bề ngoài của một thời hoàng kim đã qua. Những món đồ nội thất ọp ẹp được đánh sáng bóng, sàn nhà đã mòn được quét sạch sẽ tinh tươm, và nhân viên tiếp tân chuyên nghiệp luôn ăn mặc chỉnh tề. Một trong số họ, một người đàn ông nhiều tuổi với mái tóc xám bóng mượt, nói vài điều bằng tiếng Hà Lan khi bọn trẻ bước vào. Người lễ tân khác, một phụ nữ yếu đuối, vàng vọt, trông khá nghiêm khắc với những vòng thâm quanh mắt, gật đầu tán thành.
“Đấy lại một lần nữa,” Constance nói khó chịu.
Lần này Reynie cũng nhận ra nó – cụm từ được thốt ra lần đầu bởi người phụ nữ chó xù, và sau đó là người bán thức ăn nhanh. Sự trùng hợp ngẫu nhiên này quá quan trọng nên không thể cho qua được. Với các bạn mình ở phía sau, Reynie đến gần mấy nhân viên lễ tân và hỏi họ có thể nói được tiếng Anh không. Ngay lập tức, một ánh nhìn hiểu chuyện xuất hiện trên cả hai gương mặt.
“Tất nhiên chúng tôi nói tiếng Anh,” người đàn ông tóc xám nói lịch thiệp. Ông ta có cặp má đỏ lựng, một chòm rầu mỏng và nhỏ trông như một dấu vân tay trên cằm vậy. “Và chúng tôi có thể giúp các cháu việc gì?
“Cháu có thể hỏi hai người vừa nói gì về bọn cháu không?” Reynie hỏi. “Chúng cháu đã nghe nhiều người khác nói như vậy và chúng cháu muốn biết.”
“Các cháu là những đứa trẻ tinh ý đó!” người đàn ông nói, nghe vừa thích thú vừa ấn tượng. “Tôi đã nói các cháu đáng lẽ phải ở trường! Những người cháu nhắc đến chắc nghĩ như tôi rằng các cháu là trẻ em Hà Lan, và các cháu là mấy đứa trốn học. Nhưng các cháu là người Mỹ phải không? Đang tham quan theo trường hay thế nào vậy?”
“Cũng gần như vậy ạ,” Kate nói.
Reynie cảm thấy thật ngu ngốc và có một chút lo lắng. Đi du lịch ngang qua thị trấn, bốn đứa bọn chúng gây chú ý nhiều hơn mong muốn. Chẳng có cách gì giúp được lúc này, nhưng lại càng có nhiều lý do để tìm ra manh mối và rời khỏi đây nhanh nhất có thể. “Có một tin nhắn ở đây cho bọn cháu, phải không ạ?” cậu hỏi. “Một tin nhắn từ người tên là Nicholas Benedict?”
Người đàn ông vỡ ra một nụ cười toe toét, đầy thích thú. “Benedict, cháu vừa nói vậy phải không? Cuối cùng các cháu cũng đến! Cô đã nghe về sự sắp xếp bí mật này chưa, Daatje?” Ông ấy hỏi người cộng sự của mình, người chỉ nhìn ra ngoài, như thể cô ấy chỉ thích ở một mình thôi vậy. “Tôi nghĩ là chưa,” người đàn ông nói và quay lại với bọn trẻ. Sự hăng hái của ông ấy không hề giảm bớt một chút nào bởi vì vẻ nhẹ nhõm hiển hiện trên gương mặt lũ trẻ. “Tên tôi là Hubrecht, và tôi rất vui được gặp các cháu! Tôi có vài thứ từ Benedict. Đúng vậy, thực sự là vậy!”
Bọn trẻ chờ đợi, nhưng Hubrecht chỉ nhìn chúng với một nụ cười khích lệ. Ông ấy có vẻ đang đợi điều gì.
“Chúng cháu có thể, ừm, xem nó không?” Kate hỏi. “Làm ơn?”
Hubrecht liếc trái, liếc phải, và sau đó với một cử chỉ bí ẩn khôi hài, ông ấy nghiêng người về phía bọn trẻ và thì thầm, “Đầu tiên các cháu phải đưa tôi… món đó.” Ông ấy đột ngột ngọ nguậy đôi lông mày.
“Món đồ?” Sticky nói.
“Ổ đúng! Ngài Benedict của các cháu đã thuê một phòng, và tôi dọn dẹp để nó có thể dùng được bất cứ lúc nào cho bất cứ ai nhắc đến tên ông ấy – với điều kiện tôi được cho xem một món đồ xác định. Các cháu có nó không? Ông ấy nói các cháu sẽ không thể đến đây nếu thiếu nó. Tôi không thể nói nhiều hơn.”
“Không phải câu đố khác chứ,” Sticky nói yếu ớt.
Reynie bới tìm trong đầu mình. “Được rồi, ngài Benedict biết chúng ta sẽ mang cái gì nhỉ?”
“Cái giỏ của tớ?” Kate hỏi. “Tớ luôn mang nó bên mình.”
Hubrecht mỉm cười và lắc đầu. Ông ấy liếc nhìn Constance như đang chờ cô bé đoán ra, nhưng Constance lại chú ý tới miếng gôm bị mắc kẹt ở cạnh bàn và tạo ra những âm thanh nôn khan khó chịu, nên Hubrecht lịch sự nhìn chỗ khác.
“Nếu ngài Benedict chắc chắn chúng ta mang nó,” Reynie nói, “Nó chắc chắn là thứ chúng ta phải mang theo.”
“Có thể là quần áo,” Sticky mạo hiểm.
Mọi người nhìn cậu chằm chằm.
“Ồ đúng, nó phải là quần áo, Sticky,” Constance nói khi Kate đang kiềm chế không phì cười. “Chỉ cho ông ấy quần áo của anh và để xem nó có thể cho chúng ta vào phòng hay không.”
“Đó không phải một ý kiến ngớ ngẩn,” Sticky nói chống chế. “Không có quần áo, chúng ta sẽ bị bắt giữ phải không? Sau đó, chúng ta không thể đến đây đúng không nào?” Nhưng Hubrecht đang lắc đầu.
Xấu hổ, Sticky thúc vào xương sườn Constance một cái vì đã chế nhạo cậu. Constance thét lên và phản ứng lại bằng một cú đá vào ống quyển; sau đó hài lòng với kết quả (Sticky nhăn nhó ghê gớm và ôm chân nhảy lò cò), cô bé nhanh chóng thử nghĩ cách khác.
“Một thời gian biểu huấn luyện thì sao?” Kate hỏi, làm lơ cuộc hỗn chiến. “Hoặc một cái vé?”
Hubrecht lắc đầu. Một lần nữa ông ấy liếc nhìn Constance, như thể ông ấy tin cô bé sẽ có câu trả lời – và lúc này Reynie đã hiểu tại sao. Cô bé đã có câu trả lời. Và Hubrecht đã chỉ ra nó.
“Món quà của em!” cậu nói, chỉ vào mặt dây chuyền hình quả địa cầu của Constance. (Constance dừng việc thử cắn tay Sticky và nhìn xuống ngạc nhiên). “Chúng ta không thể đến đây mà không có nó!”
Hubrecht vỗ tay. “Chính là nó! Một thế giới nhỏ – như ngài Benedict của các cháu đã nói! Rất tốt, các cháu, các cháu sẽ có một chìa khóa.” Ông ấy với tay xuống dưới bàn. “Đây là một cuộc săn lùng thứ gì đó phải không? Thú vị thật! Tôi cứ băn khoăn khi nào những người khác tới.”
Reynie nhận chìa khóa phòng từ Hubrecht. “Khi bác nói ‘những người khác’, có phải ý bác là từng có người tới đây trước chúng cháu?”
“Ổ phải! Đây là một cuộc thi đúng không? Những người lớn thi đấu với trẻ con phải không? Chẳng công bằng chút nào! Các cháu là những người đầu tiên được trao chìa khóa. Không một ai từng vào căn phòng đó – ngoại trừ phục vụ của khách sạn. Đây là hướng dẫn của ngài Benedict.”
“Ai từng đến ạ?” Sticky hỏi.
“Hai quý ông lịch thiệp. Cùng một ngày khi bạn của các cháu, ngài Benedict thuê phòng. Họ hỏi ông ấy có ở đây không. Ông ấy không ở lại – ông ấy cùng người phụ tá trẻ chỉ đơn giản kiểm tra căn phòng rồi bỏ đi, để lại chìa khóa cho tôi – nhưng bởi vì các quý ông đó đã nhắc đến tên ông ấy, tôi thực hiện theo chỉ dẫn của ông ấy: Tôi nhắc đến căn phòng cùng những lời khen ngợi của ngài Benedict, chỉ khi họ đưa ra một món đồ xác định. Tôi nghĩ có thể nó nằm trong một cái cặp táp của họ. Họ không có món đồ, dẫu vậy, họ cảm ơn tôi rồi rời đi. Những người lịch sự, quần áo thanh lịch, kiểu người từng thường xuyên lui tới khách sạn này vào thời kỳ tươi đẹp của nó. Tôi đã rất băn khoăn người nào sẽ tới đây. Sau đó, nhiều ngày trôi qua, tôi bắt đầu nghĩ sẽ không có ai tới nữa! Cô cũng nghĩ vậy chứ?” Ông ấy hỏi đồng nghiệp của mình, người phụ nữ ông gọi là Daatje, lúc ấy cô ta dường như mới bắt đầu phản ứng lại.
Daatje bắt đầu nói. “Tôi chẳng biết gì về chuyện này cả, Hubrecht,” Reynie nghĩ cô ấy đang buồn rầu. Cô ta nhìn bọn trẻ chăm chú, không hề ác ý, chính xác là vậy, nhưng biểu hiện của cô rõ ràng đang khó chịu. Cô ấy cảm thấy bị bỏ quên ư? Hiển nhiên, Hubrecht thấy được sự sắp xếp tuyệt vời của ngài Benedict và thích thú cuốn theo nó. Nhưng không phải Hubrecht là người cô ta đang nhìn chằm chằm. Có thể cô ta không thích bọn trẻ.
Reynie muốn tin vào điều đó nhưng không thể. Cậu cảm thấy khá chắc chắn rằng ngài Benedict đã để lại tiền trong phòng cho bọn chúng – ít nhất cũng đủ mua một hoặc hai bữa ăn – và cậu thầm nghi ngờ Daatje đã lấy trộm một ít, có thể là tất cả. Cô ta có thể làm việc đó dễ dàng khi biết rằng căn phòng không có người ở. Có thể, cô ta định đổ lỗi cho ông Hubrecht nghèo hoặc một thành viên khác trong đội phục vụ của khách sạn. Đó là ánh mắt mà cô ta bộc lộ, Reynie đoan chắc. Cái nhìn của người có tội. Nó làm cậu rất băn khoăn.
Cô ta chưa kịp chuẩn bị, cậu nghĩ. Lần này cứ cho qua.
Rồi cô ta sẽ sớm nhận đủ.
Nhưng sau đó cậu chú ý đến Constance.
Cô bé đang nhìn chằm chằm Daatje, nhìn chăm chú với ánh mắt mãnh liệt và sắc sảo nhất. Và Constance nhìn càng lâu thì sự u ám trên vẻ mặt của cô bé càng lớn dần, cho đến khi cô bé quắc mắt nhìn trừng trừng. Daatje đã nhận ra và cảm thấy lúng túng trên ghế, cố tránh khỏi ánh mắt tấn công của Constance trong lúc Hubrecht nói với bọn trẻ phòng của chúng ở đâu. Khi Kate và Sticky cám ơn ông và hướng tới trước cửa thang máy, Reynie phải cầm tay Constance và dẫn cô bé rời khỏi bàn tiếp tân.
“Chuyện gì vậy?” cậu hỏi khẽ. “Cô ấy đã làm gì?”
“Em không biết,” Constance lẩm bẩm, nhìn xuống vai mình. “Nhưng nó không tốt.”
“Đó là tất cả ư? Không tốt?”
“Ý em là cực kỳ xấu,” Constance nói.
“Đó là điều anh lo ngại.”
“Cả hai đang nói gì vậy?” Sticky hỏi.
“Sẽ kể cho cậu sau khi chúng ta ở riêng với nhau,” Reynie nói. “Nhưng hãy mở to mắt cảnh giác. Có điều gì đó không hợp lý.”
“Ồ, tớ ghét điều cậu vừa nói,” Sticky nói, với tay lên cặp kính của mình.
Kate nheo mắt lại. “Cậu có thể kể cho bọn tớ trong thang máy,” cô bé thì thầm, cánh cửa mở ra và thang máy không có ai cả. Bọn trẻ đi vào và cùng đứng gần nhau, gần hơn cả không gian cần thiết, và Kate mở nắp cái giỏ, sẵn sàng tóm lấy mọi thứ cô bé cần nhanh hơn. Cánh cửa trượt đóng lại.
***
Ngang qua tiền sảnh, Daatje nhìn lũ trẻ đi. Cô ta cảm thấy buồn phiền, nhiều đến mức Hubrecht phải hỏi xem cô ta có ổn không.
“Thực ra, tôi đang đau đầu khủng khiếp,” cô ta nói. “Ông có thuốc không?”
“Không, nhưng chúng ta có mấy viên thuốc trong ngăn kéo dự phòng. Tôi sẽ lấy cho cô.” Hubrecht đi tìm chìa khóa ngăn kéo. “Chìa khóa chắc ở trong phòng làm việc,” ông nói, có vẻ lúng túng. “Đừng lo tôi sẽ tìm ra nó.”
Sau khi Hubrecht đi, Daatje lấy chìa khóa ngăn kéo dự phòng từ túi mình ra và thả nó xuống sàn, giống như một tai nạn nhỏ. Cô ta mở một mẩu giấy bên trong có ghi một số điện thoại – những ngón tay của cô run run quay từng số. “Xin chào? Vâng, tôi là Daatje – từ khách sạn. Vâng, có vài người đã đến. Vừa mới. Đó là một nhóm trẻ con. Mong ông vui lòng gửi số tiền như đã hứa đến địa chỉ của tôi. Tôi... cái gì? Không, tôi không thể nói cho ông phòng nào. Ông có nghe tôi nói chúng chỉ là trẻ con không? Không, tôi không bao giờ chấp nhận việc đó. Nó đi ngược lại thỏa thuận, và... Không, chắc chắn không! Tôi sự rằng tôi... tôi sợ rằng...”
Daatje hoảng sợ liếc qua vai. Cô ta vẫn ở một mình. “Chắc chắn ông sẽ không làm điều đó,” cô thì thầm vào ống nói. “Chắc chắn ông... ông... tôi hiểu.” Cô ta nuốt nước bọt một cách khó nhọc. “Nhưng tôi yêu cầu... ông phải hứa không có tổn hại...”
Cô ta cắn môi lo lắng một lúc lâu. Và sau đó, hít một hơi thật nhanh, cô ta cung cấp số phòng và đặt mạnh ống nghe xuống, lùi lại phía sau, như thể nó là cơn sốc tồi tệ nhất, đau khổ nhất.
***
“Tớ sẽ vào đầu tiên,” Kate nói, mặc dù cảm thấy hơi sợ. (Và Kate chỉ lo sợ khi tất cả bọn trẻ cùng cảm thấy khiếp sợ.) Cô bé và hai cậu bạn rón rén đi xuống dãy hành lang trải thảm của khách sạn. Constance vẫn ở lại trong thang máy để giữ cánh cửa mở. Chúng đang ở tầng năm. Nếu có kẻ khó chịu nào đe dọa chúng trong phòng khách sạn, thì cần phải chuồn thật nhanh.
Kate dừng lại nghe ngóng bên cạnh cửa, mở khóa và liếc vào trong. Cô nhìn các cậu bé đầy lo lắng rồi lẻn vào phòng. Reynie và Sticky cảm thấy người mình tê cứng. Sự liều lĩnh của Kate luôn giúp nỗi sợ trong chúng không lên đến đỉnh điểm, nên hai đứa chúng không hề thấy thích thú mỗi khi cô bé tỏ ra lo lắng. Sau một phút căng thẳng kéo dài, Kate gọi ra thông báo mọi thứ đều ổn, các cậu bé cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Tiếng của cô bé lại vui vẻ như trước. Các cậu bạn ra hiệu cho Constance đi theo, sau đó chúng vào phòng.
Cánh cửa mở vào lối đi chật hẹp và một cái bàn ngu ngốc được đặt ngay bên cạnh khiến cánh cửa chỉ mở được có một nửa. Cái bàn cao đến thắt lưng các cậu, trên đó đặt một lọ hoa lụa, một bát kẹo và một tờ ghi chú viết, “Chào mừng!” bằng kiểu chữ viết tay khó đọc của Số Hai. Dạ dày của Reynie đau nhói khi nghĩ đến những gì Số Hai phải chịu đựng lúc này.
Bên kia cái bàn, một khung cửa trống mở ra gian phòng chính, được sắp xếp một vài cái ghế, một cái giường, một cái sofa giường, và hai cái võng được đóng trên tường. (Reynie nhận thấy đủ chỗ cho bốn đứa bọn chúng, cộng thêm Milligan và Rhonda, chắc giờ đây họ đang mau chóng đuổi theo.) Kate đang kiểm tra phía sau rèm cửa sổ tìm manh mối hoặc lời gợi ý, gây ra đôi chút tiếng động ồn ào. Cô bé đang nhai một miếng kẹo dẻo lấy từ bát.
Reynie không thể giúp nhưng cậu lấy làm ngạc nhiên. Đi một mình vào trong căn phòng trống – một căn phòng mà cô bé có thể phải đối mặt với nguy hiểm – Kate vẫn không ngừng nhai kẹo.
“Tớ không thấy điều gì khác thường,” cô nói. “Phòng tắm cũng sạch sẽ.”
“Có thể đây là chỗ đó,” Sticky nói, nhìn xung quanh lo lắng. “Có thể ông thuê căn phòng này cho chúng ta và định quay lại. Có thể không có manh mối nào ở đây.”
“Chúng ta không thể từ bỏ vào lúc này,” Reynie nói, hy vọng Constance không nghe thấy điều Sticky vừa nói. Cậu quỳ xuống xem xét bốn chỗ trên tấm thảm bị lõm vào bởi bức tường.
Kate mở con dao quân dụng Thụy Sĩ của mình ra và dùng răng cưa của nó để cạo ra một mẩu kẹo. “Tớ cũng chú ý đến những điểm sàn nhà đó. Một cái ghế hoặc thứ gì đó từng kê tại đấy.”
Reynie đứng bật dậy. “Cái bàn cạnh cửa! Nó được chuyển đi là có lý do. Tớ cá chúng ta phải trèo lên nó hoặc...”
Đúng lúc ấy, Constance đi vào phòng chính, một tay nắm vốc kẹo, tay kia cầm một cái phong bì. Đôi mắt màu xanh nhạt nhấp nháy đầy kích động. “Không ai nhìn thấy cái này sao? Nó được treo bên dưới cái bàn.”
“Bọn anh không nhìn thấy,” Reynie nói. “Nhưng ngài Benedict biết em sẽ trông thấy nó ngay. Mọi người đều quá cao. Ông hẳn muốn em là người tìm ra nó.”
Constance mỉm cười khi nghe vậy. Cô bé cảm thấy vui khi biết ngài Benedict đã sắp đặt điều này. Nhưng nụ cười của cô bé nhanh chóng nhạt dần khi cô nghĩ đến nội dung bức thư. Nếu nó bảo bọn trẻ ở yên đây và đợi thì sao? Nếu nó là đoạn cuối của con đường này thì sao? Cô bé đẩy bức thư về phía Reynie. “Anh đọc nó đi. Em không thể chịu được nữa rồi.”
Reynie mở phong bì và đọc thành tiếng bức thư:
Các cháu yêu quý,
Ta muốn mọi người có một chỗ thoải mải để nghỉ ngơi trước chặng sau của chuyến đi, nó sẽ đưa các cháu đến... thôi, ta sẽ dành điểm đến cho các cháu đoán sau, nhưng không cần phải vội vàng quá. Nếu các cháu biết nơi có thể tìm ra câu trả lời, các cháu có thể ngủ trên nó.
Thân mến,
Ngài Benedict
“Cái giường!” Tất cả cùng hét lên rồi cười lớn. Đây là lúc hiếm hoi mà bọn trẻ nhanh chóng đồng tình với một ý kiến. Chúng cùng đua nhau đến chỗ cái giường, và những cái chăn, ga trải giường, gối bay lên đầy náo động, chúng lột sạch đến tận cái đệm chỉ trong vài giây. Không có chiếc phong bì nào. Chúng đẩy cái đệm ra khỏi khung. Chẳng có gì.
“Chúng ta thử kiểm tra cái sofa giường xem,” Reybie nói, cảm thấy lo lắng.
Chúng tháo bỏ những cái nệm ngồi ở sofa, và Kate túm lấy tấm vải lót, giật tung nó ra khỏi khe đệm. Một phong bì lớn bằng giấy chuối lộ ra, bên trên ngài Beneđict viết, “Để sử dụng trong trường hợp đói, tò mò hoặc cả hai.”
Kate rạch phong bì bằng con dao của mình và đổ thứ bên trong lên tấm đệm. “Tiền ăn trưa,” cô bé nói với vẻ thỏa mãn. Cô liền gạt bọc giấy bạc sang bên và cầm một mẩu giấy lên. “Và một địa chỉ! ‘Vận tải Dòng nước Liều lĩnh’. Nó phải ở đây trong Thernbaakagen này!”
Sticky đọc địa chỉ. “Con phố này chạy dọc bến thuyền. Tớ đã thấy trên bản đồ. Không xa lắm. Tất cả chúng ta...”
“Chuyện gì vậy, anh Reynie?” Constance hỏi.
Reynie đang nhìn chăm chú chỗ tiền giấy. “Phong bì được dán kín. Và tiền vẫn còn đây. Vậy cô ta đã làm gì?”
“Ai đã làm gì cơ?” Kate hỏi.
“Daatje, người phụ nữ ở tiền sảnh. Tớ nghĩ có thể cô ta đã lấy cắp tiền ngài Benedict để lại cho chúng ta.” Reynie bắt đầu đi tới đi lui trên phần sàn phủ đầy đệm, những tấm nệm ngồi và gối đầu chúng đã vứt ra. “Nhưng cô ta đã không ăn cắp thứ gì. Và bây giờ tớ nghĩ, mấy gã Số Mười đó đến khách sạn chỉ cám ơn Hubrecht rồi bỏ đi. Chúng đã không bắt ông ấy chỉ căn phòng. Các cậu không thấy kỳ lạ sao?”
“Chắc chắn chúng không thu được điều gì ở đây,” Kate nói. “Chúng chỉ nghĩ ngài Benedict thuê một phòng cho ai đó ở. Và ai đó chưa tới.”
“Đúng, nhưng chúng sẽ muốn biết ông ấy thuê phòng cho ai,” Reynie nói. “Và cách tốt nhất để chúng tìm ra điều đó là...” Mắt cậu mở to. “Chúng ta cần ra khỏi đây ngay bây giờ.”
“Cậu nghĩ Daatje nói với chúng?” Sticky nói, không muốn tin vào điều này. “Cậu nghĩ cô ta đã gọi cho mấy gã Số Mười và nói chúng ta ở đây?”
“Đi ngay thôi, Sticky!” Kate nói, chộp lấy cánh tay cậu và lôi cậu theo.
Nhưng Constance đã đứng chắn trước họ, và cô bé không hề di chuyển. Cô bé nhìn chăm chú vào bức tường phía xa, như thể nhìn xuyên qua dãy hành lang bến ngoài.
“Qụá muộn rồi,” cô bé thì thầm. “Chúng đang ở đây.”
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét