Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 11

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 11: Những trao đổi vụng về và trò trá hình thông minh

“Em không thể tin là anh không nhìn thấy điều đó sớm hơn,” Constance nói với một tiếng khịt mũi nghi ngờ. “Nó hoàn toàn rõ rành rành ra đấy!”
“Lần sau em nên tự mình đi mà nhìn nó,” Reynie đáp trả, cố gắng không xẵng giọng.
Kate liếc nhìn quanh quất góc tường lâu đài. “Nó là cái gần nhất. Các khẩu đại bác khác đều có nút bần hoặc cây thông trong vòng hai mét.” (Cô bé có thể nói với sự chắc chắn hoàn hảo như thế là nhờ vào tài năng ước lượng khoảng cách.) Lôi ra cái ống nhòm, Kate tháo cái mắt kính vạn hoa và nhìn được khẩu pháo kỹ càng hơn.
“Có thấy gì khác thường không?” Reynie hỏi.
“Chưa thấy.”
“Có thể nó ở dưới, bên trong nòng súng,” Sticky nói.
“Không, giờ tớ nghĩ là đã thấy cái gì đó rồi. Phải chính là cái đó! Có một vùng hơi tối màu hơn gần bệ khẩu đại bác...” Kate hạ cái ống nhòm xuống và nhoẻn cười. “Nó hình chữ nhật.”
“Giống một cái phong bì,” Reynie nói.
Kate gật đầu. “Tớ nghĩ cậu đã đúng. Một chút vữa trộn và sơn, ông có thể giấu cái phong bì sơ sài như thế.” Cô bé cất ống nhòm đi và lấy ra con dao quân dụng. “Tớ có thể lấy nó và trở về đây trong mười lăm giây.”
“Chúng ta có nên làm gì đó để đánh lạc hướng Jackson không?” Sticky hỏi.
“Quá mạo hiểm,” Kate nói. Cô bé tháo cái giỏ từ trên dây thắt lưng đặt nó xuống, rồi bắt đầu xõa mái tóc đuôi ngựa ra. “Có quá nhiều người xung quanh đây, nhưng lại có ít thời gian quá. Jillson có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tớ chỉ cần chạy ào đi trong khi Jackson đang quay qua hướng khác thôi.”
“Tớ đồng ý với Kate,” Reynie nói. “Nhưng nghe này, nếu hắn nhìn về phía cậu...”
“Tớ đã tính trước cậu một bước rồi, chiến hữu.” Kate lắc lắc đấu thật mạnh, rồi luồn các ngón tay vào tóc, rũ tung nó lên xõa về phía trước, cho tới khi nó rủ xuống che kín các phía gần như không nhìn rõ mặt cô bé nữa. “Sticky, tớ mượn cái kính của cậu được không?”
Sticky co rúm lại, nhưng dĩ nhiên cậu ta không thế từ chối. “Giữ nó cẩn thận đấy, được chứ?”
“Có bao giờ tớ không cẩn thận đâu?” Kate đáp. Cô bé đặt cặp kính cân bằng trên sống mũi nên có thể nhìn qua phía trên hai gọng kính. “Trông tớ thế nào hả?”
Sticky liếc xéo. “Dị hợm.”
“Quái đản,” Constance góp lời.
“Hoàn hảo,” Reynie gật đầu tán thưởng.
Kate tháo một bên dây giày và lén liếc trộm qua góc quanh lần nữa. “Hắn vẫn đang rảo bước. Cả hai hướng đểu đi cùng số bước chân như nhau. Nhìn trái, nhìn phải, rồi lại nhìn trái. Tớ thật là thích cái đó ở Jackson đấy. Hắn ta thật dễ đoán. Được rồi, tớ đi đây!”
Reynie thế chỗ của Kate ở góc quanh và quan sát cô bạn. Kate bước rất nhanh, nhưng không quá nhanh để gây chú ý, thậm chí cô bạn còn xoay sở để có cái dáng chân hơi vòng kiềng. Với việc giả trang ngoài dự tính thế này thì làm được đến thế cũng là khá giỏi rồi. Một cô gái có mái tóc hoang dã, chân vòng kiềng với một bên giày bị tuột, cặp kính mắt dày cộp – và không có cái giỏ đồ. Nếu Reynie không biết rõ thì hẳn chính cậu có thể cũng không nhận ra nổi cô bạn của mình. Cậu liếc nhìn về phía Jackson, hắn ta vẫn đang đi về hướng kia. Càng xa, càng tốt.
Kate thình lình đổi hướng vòng qua một gia đình đang đi tới gần khẩu đại bác để chụp ảnh, giả bộ như nhận thấy dây giày bị tuột và quỳ xuống cạnh cái bệ của khẩu đại bác để buộc lại nó – việc đó cô bé chỉ làm bằng tay. Trong bàn tay kia, Reynie nhìn thấy con dao nhỏ của cô bạn mình lóe lên. Không có thời gian để mà ngạc nhiên trước sự khéo léo của Kate, mặc dù cô bé vừa nhanh nhẹn vừa khéo léo đến từng ly từng tí. Cô bé đã cạo ra và lấy được cái phong bì, thắt lại dây giày và lại đứng lên, đút cả phong bì cùng con dao vào trong túi với một nụ cười chiến thắng rạng rỡ. Rồi cô bé do dự. Người mẹ trong gia đình kia đang nói với cô, chìa ra cái máy ảnh, bước đến trước mặt cô. Bà ấy muốn nhờ Kate chụp bức ảnh cả gia đình cho họ.
“Ồ, không,” Reynie thốt lên.
“Có chuyện gì thế?” Constance rít lên hỏi.
“Sẵn sàng chạy nhá,” Reynie nói. Cậu nghe thấy tiếng hai người bạn hít mạnh vào một hơi.
Kate đang lắc đầu, giả vờ không hiểu. Bà mẹ kia nắm lấy cánh tay cô, cố gắng làm cho cô bé hiểu. Cuối cùng, với nụ cười vẻ lấy làm tiếc và một cái vặn tay điệu nghệ, Kate bỏ đi. Nhưng sự trì hoãn đó có cái giá của nó. Reynie biết thế, và từ biểu hiện trên mặt Kate thì cô bạn cũng biết điều đó. Cô đang bước đi có chủ đích, nhưng không thể mạo hiểm chạy. Reynie nhìn xem Jackson đã phát hiện ra cô ấy chưa.
Jackson thì chưa. Nhưng Jillson thì có.
Không gì nhầm lẫn được Jillson. Cao 1 mét 8, tóc đuôi ngựa màu nâu trơn bóng, hai cánh tay như búa tạ. Ả ta vừa mới đi vòng qua góc xa của lâu đài, và khi tiến đến gần Jackson, cô ta quay qua nhìn về phía Kate. Nét mặt cô ta không có vẻ đã nhận ra nhưng nó rõ ràng là có nghi ngờ. Jackson quay sang nhìn ngay trước lúc Kate đi khuất ở góc quanh. Liệu hắn ta có nhận ra Kate hay không, Reynie không thể nói chắc – cậu phải rụt người thật nhanh để tránh bị hắn phát hiện.
“Hắn có nhận ra tớ không?” Kate hỏi.
“Jillson thì có,” Reynie nói. “Chúng mình cần phải đi thôi.”
“Jillson á?” Sticky la lên.
Kate giật cái xẻng từ tay Reynie. “Thế thì đi ngay thôi! Cõng Constance đi. Tớ sẽ gặp các cậu ở ngoài cổng.”
Không có thời gian để tranh cãi hay hỏi han nữa, thậm chí Sticky cũng chẳng kịp lấy lại cặp kính mắt. Với Constance cõng trên lưng Reynie, Sticky liêu xiêu bám sát theo sau, ba đứa vội vã đi theo lối mòn ngoằn ngoèo xuyên qua bụi cây, một lần nữa làm con công từ dưới mấy bụi cây giật mình. Băng qua quảng trường, xuống cầu thang và chạy ra phía cổng, vừa chạy Reynie vừa nhìn lại sau thấy Kate đã nhập hội với mấy con công và đang cố xùy xùy xua chúng đi qua góc quanh lâu đài. Thậm chí ở khoảng cách xa thế này cậu cũng có thể nghe thấy tiếng la giận dữ kinh ngạc của một phụ nữ trẻ – đó hẳn là Jillson – theo sau đó là một cuộc bạo loạn ồn ào những tiếng gầm gừ, tiếng cục cục ầm ĩ.
Trong khi đó, Kate đang xỉa xỉa cái xẻng giống như lưỡi giáo vào giữa bụi cây. Reynie thoáng nhìn về phía cổng – và khi cậu liếc lại về phía sau thì Kate đang biến mất ở góc quanh xa nhất của lâu đài. Jackson và Jillson đang vòng ra ở góc đằng kia trong khi Reynie phóng vọt ra ngoài qua cổng lâu đài.
“Em không nghĩ họ nhìn thấy chúng ta,” Constance nói, cô bé cũng đang ngó về phía sau, “nhưng nếu họ hỏi thăm xung quanh thì sao? Rất nhiều người trông thấy chúng mình chạy ra cổng.” Quả là thế, lúc này một số người cũng đang nhìn chúng. Vài người còn liếc quanh như thể họ đang thắc mắc bố mẹ lũ trẻ này ở đâu.
“Anh không tưởng tưởng được có ai trong bọn chúng biết tiếng Bồ Đào Nha,” Sticky nói. “Chúng ta phải hy vọng chúng không tìm được ai biết nói tiếng Anh. Có lẽ bọn chúng còn không nghĩ đến việc hỏi thăm. Các cậu biết đấy, bọn chúng không thông minh cho lắm.”
Như để chứng minh cho luận điểm của Sticky, một âm thanh huỳnh huỵch phát ra từ phía bụi cây, theo sau là một tiếng nguyền rủa ẩm ĩ. Jackson đã dẫm phải cái xẻng Kate cố ý đặt ở đó. Có vẻ như hắn đã bước vào lưỡi xẻng khiến cho cái cán bật lên đập vào hắn. Ý nghĩ đó sẽ thật thú vị nếu vào lúc này tiếng gầm tức giận của Jackson không càng lúc càng lớn và thú tính hơn.
“Thông minh hay không thì bọn chúng cũng đang đi về lối này,” Reynie nói, lo lắng nhìn về phía cổng. “Chúng mình cần phải ra khỏi đây. Nhưng Kate...”
“Mình thì sao?”
Mọi người nhảy dựng cả lên, quay sang thấy Kate đang toe toét cười với cả bọn. “Chị từ đâu ra thế?” Constance hỏi.
“Chị đi qua bức tường ở đằng kia,” Kate nói. Cô bé đưa trả Sticky cái kính của cậu. “Nghe này, tớ nghe thấy bọn chúng đang nói chuyện. Chúng không biết chắc tớ là ai, nhưng chúng đang đi ra và nhìn quanh kìa. Đây, Reynie, cậu nên để tớ cõng Constance cho.”
Bọn trẻ lên đường, vội vàng rời khỏi lâu đài. Đi xuôi dọc theo con phố ngoằn ngoèo rải sỏi, hòa vào dòng người bộ hành, băng qua các quảng trường lát đá, đi mãi tới nơi con đường bắt đầu trở nên càng lúc càng hẹp và bắt đầu chia nhánh tỏa ra vào các đường phố và ngõ ngách khác. Tụi nó đã đi tới khu vực cảng cá. Lũ trẻ dừng lại để lấy hơi, chấn chỉnh lại bộ dạng. Xung quanh chúng mùi cá vẩn lên cùng với hương thơm tinh tế của những cây hoa giấy leo trên những bức tường đá cũ. Dân địa phương và khách du lịch chen vai ngược xuôi đi qua nhau trong con phố hẹp và tụ thành đám đông ở lối vào của những cửa hiệu.
Reynie và Sticky đang thở hổn hển, siết lấy hai bên mạn sườn. Sticky đã quỳ cả một đầu gối xuống, lau trán bằng gấu áo sơ mi.
“Con trai các anh bộ dạng thật kinh khủng,” Constance nhận xét từ vị trí chễm chệ trên lưng Kate.
Kate đang nhìn lại phía sau ngược lên lối bọn họ vừa đến. Cái ống nhòm không có ích gì, các con phố này quá ngoằn ngoèo không thể nhìn xa hơn một dãy phố dù ở bất cứ hướng nào. Nhưng ít nhất Jackson và Jillson cũng không ở ngay phía sau chúng, điều mà cả bọn đều đang lo sợ.
“Chúng mình thậm chí còn không biết sẽ đi đâu nữa,” Reynie hổn hển nói. “Tụi mình cần phải đọc manh mối đó.”
Chúng di chuyển vào trong một con hẻm, chụm đầu với nhau phía sau một cái quầy, chỗ đó xếp hàng dài những con cá lớn được chất thành đống như những khúc gỗ. Chúng sẽ không dễ dàng bị trông thấy từ phía đường. Người bán cá – một người đàn ông lực lưỡng đang nắm trong tay một con dao phay – liếc nhìn chúng, thấy chúng chỉ là mấy đứa trẻ con bèn quay lại với công việc cắt đầu cá của ông ta. Kate rọc cái phong bì bằng con dao quân dụng của mình để mở nó ra. Bên trong là một lời nhắn và một chiếc chìa khóa.
Kate liếc qua tờ giấy có lời nhắn. “Tớ không thể hiểu đầu cua tai nheo gì trong này cả,” cô bé nói, đưa tờ giấy cho Sticky và hướng sự chú ý về phía chiếc chìa khóa. Nó là một cái chìa khóa bình thường, nho nhỏ, với con số 37 được khắc bên trên. Kate lấy ra chùm chìa khóa ở trang trại nhà mình để so sánh với nó, thầm nghĩ có thể thu hẹp được phạm vi phân loại thứ có thể dùng nó để mở khóa. Cô bé nghi ngờ đó là một cái ngăn kéo hoặc không, một khoang tủ khóa – cái chìa này giống chìa khóa kho ngũ cốc trong kho thóc hơn, và rốt cuộc các kho đều có đánh số cả.
Trong khi đó, Sticky đọc lớn lời nhắn kia:
Từ ga tàu này sẽ có tàu hỏa đưa các cháu tới câu đố.
“Rốt cuộc đấy có nghĩa là gì?” Kate hỏi.
“Tớ chưa bao giờ nghe nói tới,” Sticky nói. “Có lẽ nó là một...”
“Ga tàu hỏa,” Constance nói. “Đúng không, anh Reynie? Câu đố này sẽ đưa các cháu tới ga tàu hỏa. Đó là đáp án duy nhất khả dĩ.”
Giật mình, Sticky đưa mắt nhìn qua nhìn lại giữa Constance và tờ giấy ghi lời nhắn trong tay cậu. Cô nhóc Constance mới này có thể phát hiện ra những kiểu mẫu và cảm nhận mọi thứ theo cách người khác không thể – đã luận ra được một thứ quen thuộc.
“Mình thấy có vẻ đúng đấy,” Reynie nói.
“Tớ cược là chìa khóa này mở một ngăn tủ thuê ở đó!” Kate nói. “Nhanh lên, Sticky! Hỏi thăm người đàn ông này làm thế nào để đến được ga tàu hỏa!” Cô bé vỗ vỗ lên vai người bán cá.
Sticky chớp mắt, mồm há ra rồi lại ngậm vào. Người bán hàng nhìn Kate rồi lại nhìn Sticky. Ông ta vẫy vẫy con dao phay một cách nóng nảy và nói điều gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha.
“Tớ... tớ không nói được tiếng Bồ Đào Nha,” Sticky nói, Kate hất đầu lên trong bộ dạng kinh ngạc.
Constance trông rõ vẻ khinh thường. “Nhưng lúc trên tàu,” cô nhóc nói, “khi thuyền trưởng Noland hỏi anh...”
“Nhưng anh có thể viết!” Sticky vừa nói vừa lục trong túi quần tìm một cây bút. Trong khi người bán hàng quan sát – những đứa còn lại trao nhau những cái liếc mắt lo ngại – Sticky quay mặt kia tờ giấy của ngài Benedict và bắt đầu viết. Người bán hàng nói gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha. Ông ta làm động tác viết bằng tay rồi nhún vai và lắc đầu.
“Ông ấy không biết đọc,” Reynie nói.
“Để mình làm rõ chuyện này nhé,” Kate nói. “Sticky có thể viết tiếng Bồ Đào Nha nhưng không thể nói, còn người đàn ông này thì có thể nói nhưng lại không biết đọc.” Cô bé dường như không chắc chuyện này là đáng thất vọng hay thật hài hước nữa.
Trong khi đó, Sticky có vẻ sắp phát khóc.
Reynie bước tới. “Ông có nói được tiếng Anh không?”
Người đàn ông nhún vai tỏ vẻ rất lấy làm tiếc và quay đi.
“Espanol?” Reynie hỏi. Cậu đã học tiếng Tây Ban Nha mấy năm trước ở Trại tế bần. Bồ Đào Nha giáp ranh với Tây Ban Nha, vậy nên có thể…
“Sí” người đàn ông đáp, quay lại về phía cậu. “Un popquito”
“Ông ấy nói gì thế?” Kate hỏi.
“Ông ấy nói được một ít tiếng Tây Ban Nha,” Reynie nói, và nhanh chóng hỏi người đàn ông ga tàu điện nằm ở đâu. Sau một lúc, trao đổi khó khăn (vì cả hai bọn họ đều khá là cà lăm bập bõm khoản tiếng Tây Ban Nha), Reynie tóm lại được là ga tàu hỏa chỉ cách một quãng ngắn thôi. Người đàn ông thậm chí còn đồng ý vẽ bản đồ cho tụi nó, chỉ vài nét phác thành thạo bằng bút bi ông ta đã trao cho chúng một cái bản đồ khá là tuyệt vời trên mặt sau lá thư của ngài Benedict. Ông ta không thể viết tên đường, nhưng đọc to cho Reynie biết, cậu rối rít cảm ơn ông ta và quay lại với lũ bạn.
Mấy đứa con gái đã sẵn sàng đi, Constance được cõng trên lưng và Kate đang ngó nghiêng khắp con phố đông đúc để chắc chắn Jackson và Jillson không lảng vảng quanh đó. Sticky lảng tránh ánh nhìn chằm chằm của Reynie, nhưng nếu cậu ta mong có một lời phàn nàn được thốt ra thì chắc chắn sẽ chẳng nhận được nó từ Reynie. Lúc này đang là thời điểm gay go mà.
***
Ga tàu là một nơi đông đúc, ồn ào hối hả, các sân ga đều chật ních người. Tiếng trò chuyện ồn ào không dứt và một chuỗi ầm thanh rầm rầm, lách cách và tiếng rít vang lên khi các đoàn tàu dừng lại và rời khỏi sân ga, vượt lên trên tất cả là tiếng loa thông báo oang oang khắp mọi nơi. Rất khó nghe được tiếng nói rõ ràng.
“Thử lại đi,” Constance nói.
Kate lại cố liên lạc với thuyền trưởng Noland bằng bộ đàm của Đạn Thần Công. Nhưng tiếng phát ra từ cái loa không thể nghe ra tiếng gì, cô bé chỉ biết đó chính là tiếng của mình ở đầu bên kia, nghe rất giống tiếng quang quác. Thậm chí nếu không phải thế thì tiếng ồn ào ở sân ga này cũng có thể khiến cho lời cô nói nghe không rõ. Chẳng thể nào biết được liệu thuyền trưởng có hiểu cô nói gì không – hoặc thậm chí không biết có phải thuyền trưởng là người trả lời hay không. Kate tắt bộ đàm đi để tiết kiệm pin. Tụi nó sẽ thử lại lần nữa sau.
Constance cau có khó chịu. “Chị đáng lẽ nên thử liên lạc bộ đàm từ lúc ở lâu đài, Kate ạ.”
“Nếu em nhớ lại,” Kate nhẹ nhàng đáp, “thì chị có hơi bận bịu để giúp chúng ta thoát khỏi đó đấy.”
Reynie không nói gì. Cậu đã quan sát Kate cố gắng bắt liên lạc với thuyền trưởng với một cảm giác pha trộn kỳ lạ giữa hy vọng và nghi ngại, cậu nghĩ tốt nhất là giữ im lặng cho tới khi cậu biết rõ mình thực sự cảm thấy thế nào.
Sticky hối hả trở lại từ chỗ quầy bán vé. “Tớ biết đường rồi,” cậu ta nói, vẫy vẫy một mảnh giấy trên tay. “Tủ khóa cho thuê ở lối đó.”
Mấy đứa theo Sticky đi qua một cánh cửa và xuống một hành lang ngắn. Nếu chiếc chìa khóa này không mở được ngăn tủ khóa, thì bọn trẻ không thể biết được điểm đến kế tiếp, vậy nên với nỗi bồn chồn ghê gớm chúng quan sát Kate tra chìa khóa vào hộc tủ số 37. Cô bé xoay chìa. Khóa bật ra.
Bên trong hộc tủ là một cái phong bì và một xấp tiền giấy. Các tờ tiền có rất nhiều màu sắc, chẳng có gì giống với tiền bọn trẻ quen dùng cả, Constance liền quan sát chúng vẻ nghi ngờ. “Tiền giả à? Tại sao ông lại cho chúng mình tiền giả nhỉ?”
“Đó là giấy bạc đồng euro,” Sticky nói. “Chúng được lưu hành rộng rãi trong liên minh châu u.”
“Ok, vậy nó là tiền thật,” Constance nói. “Chúng mình sẽ mua gì bằng tiền này?”
“Vé tàu, anh nghĩ vậy,” Reynie nói, mở lá thư ra và đọc to:
Các cháu đã dùng những món quà của mình để đi xa được đến mức này
(Và làm được hết mức),
Bước tiếp theo cũng dùng đến những món quà đó...
Đặc biệt là của Constance.
“Em á?” Constance thốt lên. “Em sẽ phải làm gi? Trò tiên đoán thời tiết ngu ngốc à?”
Mấy đứa kia nhìn nhau lúng túng.
“Có lẽ em nên quan sát xung quanh,” Reynie gợi ý. “Có thể đáp án sẽ đến với em.”
“Để em nghĩ cái đã!” Constance nói, cảm thấy quá sức với phát hiện này. Cô bé liếc xuôi ngược cả hành lang. “Em thấy những hộc tủ khóa. Thế thôi.”
“Không có kiểu mẫu nào à?” Sticky hỏi.
“Hừm. Các tủ khóa có vẻ được sắp xếp theo trật tự đánh số,” Constance mỉa mai nói. “Em băn khoăn không biết điều đó có quan trọng không.”
Kate bắt đầu chuyển tiền từ hộc tủ vào trong cái giỏ của mình. “Em đang đùa,” cô bé nói, “nhưng có thể các con số quả thực quan trọng.” Cô bé gõ vào con số trên cửa hộc tủ. “Có thể ‘37’ có ý nghĩa nào đó.”
“Nó có thể có nghĩa là ba mươi sáu hộc tủ trước đã bị chiếm trước khi ngài Benedict tới thuê nó,” Constance nói.
“Đó không phải là một ý tưởng tồi đâu,” Reynie nói. “ Hãy suy nghĩ về nó xem.”
Nhưng mặc dù cả bọn vất vả suy nghĩ thế nào đi nữa tụi nó vẫn không thấy con số này có gì quan trọng. Trong khi đó, Constance bắt đầu rảo bước đi đi lại lại. Với Constance thì đây là một thái độ không bình thường (hành động này giống kiểu của Reynie hơn), còn Reynie thì tỉ mỉ quan sát cô nhóc, cố gắng hình dung làm sao ngài Benedict lại kỳ vọng chúng khám phá ra manh mối này. Nếu có ai nhạy cảm hiểu tính khí thất thường của Constance thì người đó chính là ngài Benedict. Có vẻ không giống ông lắm khi đặt áp lực như vậy lên cô bé. Thật vậy, ông không dự đoán là cả bọn đi tới được manh mối này, nhưng dù vậy, ông có lẽ không định để Constance hoàn toàn tự mình phải tìm ra đáp án.
Constance giờ đã thôi quanh quẩn và Reynie đột nhiên nhận ra cô nhóc đang gắt gao nhìn cậu chằm chằm.
“Có chuyện gì thế?” cậu hỏi.
“Anh sắp tìm ra được đáp án rồi đấy,” Constance nói. “Em có thể biết được.”
“Anh ư?” Reynie hỏi. “Em có thể ư?”
Sticky và Kate đưa mắt nhìn nhau. Chúng biết điều gì đó quan trọng đang xảy ra.
“Có lẽ đó là ánh mắt của anh,” Constance nói, “hoặc có thể là nét mặt anh, hoặc cái cách anh thở, hoặc... em không biết. Em chỉ thấy thế. Anh sắp sửa nghĩ ra đáp án rồi.” Cô bé tiếp tục nhìn Reynie chăm chăm, bây giờ ánh mắt cô bé đang rà soát tìm kiếm, nửa hy vọng nửa sợ hãi.
Reynie cố gắng giữ điềm tĩnh. Cậu biết Constance cần cậu duy trì bình tĩnh, nhưng thực tế tim cậu đang chạy đua lúc này. Quả thực việc ý nghĩ của cậu bị tiết lộ ra như thế thật hết sức kỳ lạ. Vì các suy nghĩ của cậu trong vấn đề này mới chỉ thay đổi có một chút, không phải vậy sao? Cậu bắt đầu mở rộng thêm tầm bao quát của manh mối này, để suy xét làm thế nào nhìn nó theo một phương cách khác...
“Đó!” Constance kêu lên, đúng lúc Reynie mắt mở lớn miệng há ra định nói. “Anh tìm ra rổi đấy!”
Miệng Reynie liền ngậm ngay lại. Cậu hít vào một hơi thật sâu. “Được rồi, cái đó không được ổn lắm, Constance ạ.”
“Nói cho em nghe xem nào,” Constance nói. “Nghĩ xem với em nó thế nào.”
Kate không thể giữ im lặng lâu hơn nữa. “Vậy cái gì thế? Đáp án là gì? Nói cho bọn tớ đi, nói to lên!”
“Đó là cái mặt dây chuyền,” Reynie nói, chỉ vào chiếc vòng cổ mới của Constance. “Ngài Benedict không ám chỉ ‘món quà’ như là ‘tài năng’, ông ấy có ý nói ‘món quà’ trong nghĩa ‘quà cáp’!”
Kate bật cười. “Vậy thì em biết gì không? Món quà của em là một manh mối trá hình đấy! Thôi nào, Constance, chúng mình cùng xem nào!”
Constance tháo cái vòng ra và cầm mặt dây chuyền đưa ra trước mặt, xoay trái địa cầu thu nhỏ lộn vòng vòng trong mấy ngón tay. Cô bé đăm đăm nhìn nó buồn bã, lại một lần nữa ngưỡng mộ màu xanh lá và nước biển xanh sẫm đó với viên pha lê nhỏ sáng lấp lánh. “Thế giới là con sò của cháu,” ngài Benedict đã viết thế trong tấm thiệp sinh nhật của cô bé và lúc này cả bọn hiểu rằng ông đã dụng tâm vào đó nhiều hơn vẻ bề ngoài ban đầu của nó. Ông đã lên kế hoạch cho chuyến đi vòng quanh thế giới hào hứng này – trong chuyến đi ấy Constance và mấy đứa sẽ bám theo sau ông.
Constance dúi cái mặt dây chuyền về phía Kate. “Đây,” cô bé nói bằng một giọng nghèn nghẹn. “Cứ xem nó như các anh chị muốn.” Cô bé quay người và đi vài bước xuôi theo hành lang, vẻ buồn bã thấy rõ.
Mấy đứa còn lại nhìn theo cô bé ái ngại, nhưng chúng chẳng thể làm gì để an ủi Constance vào lúc này. Chúng vẫn phải tìm hiểu để biết nơi sẽ đến tiếp theo, điều đó đang được chứng minh là không dễ dàng như chúng hy vọng. Các châu lục và đại dương trên quả cầu mặt dây chuyền được mô tả rõ ràng, nhưng chẳng có dấu hiệu nào đánh dấu đích đến cả, viên pha lê được đặt ở chính giữa Thái Bình Dương – chẳng có vẻ giúp ích được gì.
“Có nghĩ ra điều gì không?” Kate hỏi.
Reynie đang vò đầu. “Ngài Benedict đã viết rằng thế giới là con sò của cô bé, đúng không? Tớ nghĩ con sò này chắc phải có ngọc ở bên trong. Câu hỏi là làm thế nào để chúng mình lấy được nó. Có thể có một cơ cấu vận hành nào đó ở bên trong. Thử ấn lên viên pha lê xem.”
Kate ấn lên viên pha lê. Chẳng có gì xảy ra cả. Cô bé cố thử di chuyển nó lên xuống như một cái công tắc, rồi vặn nó giống một cái đĩa quay. Mặc dù vậy, viên pha lê được gắn chắc chắn, không hề nhúc nhích. Cô bé xoay quả cầu, cẩn thận xem xét nó từng tí một. Kate liếc xuống lối hành lang nhìn Constance và thì thầm, “Các cậu nghĩ chúng mình có nên đập vỡ nó ra không?”
Sticky nhăn mặt. “Tớ hy vọng là không. Con bé đủ buồn rầu rồi.”
“Ngài Benedict sẽ không làm thế với Constance đâu,” Reynie nói. “Chắc chắn phải có cách nào đó.”
“Tớ có thể cậy viên pha lê ra bằng con dao của mình,” Kate nói. “Có thể nó giấu thứ gì bên dưới. Tụi mình có thể đặt viên pha lên lại chỗ cũ sau.” Cô bé nhún vai. “Buồn cười thật, các cậu biết đấy, chúng mình sống sót cũng đủ lâu rồi mà.”
Sticky che mặt. “Tớ ghét khi cậu nói kiểu ấy.”
“Cậu có thể làm thế mà không làm vỡ hay xước mặt dây chuyền không?” Reynie hỏi.
“Tớ nghĩ vậy,” Kate nói. Cô bé ngắm nghía thật gần các mép viên pha lê để xem chính xác nó được đặt vào đó thế nào. “Chờ một phút, hình như có gì đó…” Cô bé đưa viên pha lê lên cao để nhìn bằng một mắt. “Oa!”
Constance vội vàng quay trở lại với chúng. “Gì thế? Nó là cái gì thế?”
Cười toe toét, Kate đưa cô bé cái mặt dây chuyền. “Viên pha lê đó không như bề ngoài chúng ta tưởng. Đừng chỉ nhìn ngắm nó. Hãy thử nhìn xuyên qua nó đi.”
Constance che một bên mắt và giơ cái mặt dây chuyền lên thật gần mắt bên kia. Cô bé giật mình. “Oa!” Cô bé kéo mặt dây chuyền xuống nhìn nó như thể chưa bao giờ trông thấy nó trước đây, rồi lại đưa nó tới gần nhìn vào viên pha lê lần nữa.
Viên pha lê này, theo như lũ con trai vừa tự mình phát hiện, thì nó chính là một cái kính lúp. Nhìn qua đó sẽ thấy được một tấm bản đồ Hà Lan được giấu bên trong mặt đây chuyền. Tấm bản đồ này nhỏ hơn cả một con tem thư nhưng hoàn toàn thấy được khi nhìn qua viên pha lê. Một giấu X màu đỏ đánh dấu thành phố có tên Thernbaakagen, và ở phía dưới tấm bản đồ có tên một khách sạn và địa chỉ một con phố.
“Tớ trông thấy thành phố đó trên bảng lịch trình,” Sticky nói. “Có một chuyến tàu sẽ khởi hành đến đó trong mười phút nữa!”
“Vậy thì đến lúc bắt tàu rồi,” Reynie nói.
***
Khi các thành viên của Hội Benedict Thần Bí vội vã bắt chuyến tàu của chúng thì Jackson và Jillson – có phần ít vội vã hơn nhưng rất có chủ đích – bước vào nhà ga. Với gương mặt cau có, chúng rà soát trong đám đông. Cả hai đều không có phương pháp đặc biệt nào, ban đầu việc tìm kiếm của chúng bừa bãi, lung tung. Tuy nhiên, sau vài phút quan sát không có kết quả, Jackson nảy ra ý tưởng bắt đầu ở một sân ga và từ từ đi dọc theo tất cả các sân ga cho tới khi chúng tới đầu kia của nhà ga. Hắn nói với Jillson sẽ làm thế.
“Tao không thích bị bảo phải làm gì đâu nhé,” Jillson nói.
“Có lẽ là không,” Jackson đáp. “Nhưng mày cũng không thích phải quyết định cơ mà.”
“Đúng thế,” Jillson nói, cô ta bắt đầu đi bộ, sượt qua một doanh nhân trẻ, người này đánh rơi tờ báo và suýt ngã. “Vậy nói tao biết phải làm gì đi, Jackson, nhưng mày không nói với tao lý do tại sao. Lần cuối cùng, tại sao chúng ta lại có mặt ở ga tàu hỏa hả?”
Jackson phớt lờ cô ta. Chúng vừa đến sân ga đầu tiên. “Mày nhìn hướng đó đi, thẳng vào trong ga,” hắn nói, tự hài lòng vì đã nghĩ ra một phương pháp có hệ thống, “còn tao sẽ xem lối này, về phía các sân ga chờ.”
Jillson cằn nhằn và làm theo Jackson bảo, nhưng sau khi đi qua hai sân ga đầu tiên cô ta vẫn chẳng thấy tăm hơi đứa con gái cận lòi có mái tóc hoang dã mà chúng đã thấy ở lâu đài, con bé đó có lối cư xử khiến người ta phải tò mò và trông quá quen thuộc. Rồi cô ta nhớ ra Jackson chưa hề trả lời câu hỏi. “Này,” cô ta nói, “nói tao biết tại sao chúng ta ở đây hoặc không tao sẽ nện mày một trận đấy.”
Lần này Jackson hạ cố trả lời. “Bởi vì Benedict đã đến đây, Jillson. Mày không nhớ à? Lão và cái ả đàn bà trông lo lắng bồn chồn đó đã đến đây vào cùng buổi sáng hôm bọn chúng tới lâu đài.”
“Dĩ nhiên tao nhớ chứ. Nhưng vậy thì sao?”
“Vậy thì chúng đến và lại rời đi mà không bắt chuyến tàu nào. Và chúng chưa hề bắt tàu. Chúng rời đi bằng máy bay. Điều đó có nghĩa chúng đến đây vì thứ gì đó ở sân ga này, Jillson ạ, thứ gì đó quan trọng hơn là bắt một chuyến tàu.”
Jillson ngây ngẩn ra nhìn hắn. “Là thế à?”
“Phải, đúng thế,” Jackson khinh khỉnh đáp. “Ngoài lâu đài đó, đây là nơi duy nhất trong thành phố này chúng ta biết có liên quan tới Benedict. Nếu chúng ta thấy kẻ nào đó khả nghi vội vã rời khỏi địa điểm đầu tiên, và rồi chúng ta không tìm thấy nó trên đường phố, mày không nghĩ chúng ta nên tìm kiếm quanh...”
Khi Jackson nói đến đó bọn chúng đang đi tới sân ga kế tiếp, ở đấy một đoàn tàu đang chuẩn bị rời đi. Sân ga bây giờ vắng tanh – tất cả hành khách đã lên tàu – ngoại trừ một đứa con gái vọt lên toa tàu cuối cùng ngay khi tàu bắt đầu chuyển bánh.
Một đứa con gái tóc vàng với một cái giỏ.
Jackson dừng cuộc truy tìm. “Tao vừa trông thấy Kate Wetherall lên chuyến tàu kia!”
“Tao cũng vậy,” Jillson nói, cô ta đã quên bẵng mất công việc của mình, rời mắt khỏi chuyến tàu đó rồi lại nhìn vào đám đông ở ga. Và vì cô ta không nhìn theo hướng kia, nên không thấy một doanh nhân đã hiện ra từ đám đông và đi đến đứng sau cô ta và Jackson.
Doanh nhân này không phải gã đàn ông trẻ tuổi mà Jillson va phải lúc trước. Gã này xách một cái cặp táp, mặc một bộ vét đắt tiền, nước hoa đắt tiền và đeo hai chiếc đồng hồ đắt tiền – mỗi cổ tay một chiếc. Jillson đã thấy gã đàn ông này lúc trước thì sẽ không bao giờ có chuyện cô ta vô tình va vào hắn.
“Kate Wetherall,” Jillson vẫn đang nói, “à, à, trông giống con bé đó đây. Nhưng làm sao chúng ta biết chắc? Tao không muốn báo cáo nếu chúng ta không chắc chắn. Ông ấy không thích ai mắc sai lầm đâu, mày biết đấy.”
“Chúng ta có thể chắc chắn không à?” Jackson nhại lại cười khinh bỉ. “Trên đời này còn có đứa con gái nào mang theo một cái giỏ đi khắp mọi nơi hả, Jillson? Đó là Kate Wetherall, không nghi ngờ gì cả. Hãy tìm hiểu xem chuyến tàu đó đi tới đâu, và sau đó…”
Jackson ngừng nói. Hắn cứng đờ người. Hắn đã ngửi thấy mùi hương của thứ nước hoa đàn ông đắt tiền. Jillson, nhận thấy hành vi kỳ quặc của Jackson, cũng cứng người lại. Chúng quay lại và phát hiện ra gã doanh nhân kia đang đứng phía sau mình. Gã đàn ông trông nghiêm túc, nhưng ánh mắt thì biểu lộ một sự thỏa mãn rành rành thậm chí là khoái trá. Đặt chiếc cặp táp xuống đất, gã dặt một bàn tay lên vai Jackson, tay kia trên vai Jillson.
“Làm việc tốt lắm,” hắn nói. “Giờ đi với ta.”
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét