Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict
Bộ Sách: Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict (tập 2)
Tác Giả: Trenton LeeStewart
Thể Loại: Kỳ ảo, Huyền bí, Văn học phương Tây
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.comThế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart |
Chương 12: Những lời hứa hẹn và lệnh ân xá
Bởi vì hành trình của chuyến tàu sẽ mất cả đêm nên bọn trẻ đã đặt một khoang ngủ, và điều đầu tiên Constance làm khi bước chân vào đó là ném người lên chiếc giường tầng dưới để nghỉ ngơi. Mấy đứa đã quá quen với hành động của Constance. Ở tuổi lên ba, cho dù là được cõng trên lưng cả buổi chiều cũng có thể kiệt sức, chưa nói đến liên tục phải lo lắng và khổ sở. Thực tế, cả bốn đứa tụi nó đều mệt rũ ra – ngay cả Kate. Nhưng Kate không phải là người để cho sự mệt mỏi từ từ hạ gục mình. Lúc cô bé đóng cánh cửa lại phía sau, liền mở ngay cái giỏ và lấy ra chiếc điện đàm của Đạn Thần Công.
“Ở đây yên tĩnh hơn,” cô bé nói. “Nếu may mắn chúng ta sẽ liên lạc được.”
Reynie đứng cạnh cửa sổ khoang tàu, hai tay đút túi quần. Đoàn tàu vẫn còn trong thành phố, cậu có thể thấy ánh hoàng hôn đang hắt lên cửa sổ của những tòa nhà phóng qua vùn vụt. Trời chẳng mấy chốc sẽ tối hẳn. Bọn chúng chẳng bao lâu sẽ rời xa bỏ thành phố này, bến cảng và con tàu đã đưa chúng tới đây. Trong túi, tay Reynie cảm nhận được món quà thuyền trưởng Noland đã tặng cậu. Cậu chưa bao giờ nhìn kỹ nó, nhưng từng phút trôi qua, cậu càng cảm thấy bị thuyết phục về tầm quan trọng của nó.
“Tớ có thể xem cái bộ đàm đó không, Kate?” cậu hỏi.
Kate tặng cậu một ánh nhìn hơi chế nhạo. Có điều gì dấy trong giọng điệu của Reynie khiến cô bé thấy kỳ quái. Đó không phải cái giọng cậu hay dùng với cô, và Kate không thể đoán ra nó có nghĩa gì. Cô đưa cậu bạn chiếc điện đàm. “Chuyện gì thế? Giọng cậu nghe thật buổn cười.”
Reynie mở cửa sổ và ném cái máy điện đàm ra ngoài.
“Cái quái gì thế?” Kate la lên. “Tại sao cậu lại làm thế?”
Constance ngồi dựng dậy trên giường nhìn cậu chằm chằm, còn Sticky thì chạy tới cửa sổ nhìn ra ngoài, như thể cái điện đàm chỉ rơi ở chỗ nào đó cậu có thể với tới được. Dĩ nhiên, không phải thế, cậu chằm chằm nhìn theo nó lắc đầu vẻ không tin.
“Tớ không muốn ông ấy biết chúng mình ở đâu,” Reynie nói. “Ngài thuyền trưởng ấy. Tớ không tin ông ấy.”
Sticky vẫn đăm đăm khổ sở nhìn ra cửa sổ. Cái máy điện đàm đó là cách thức liên hệ duy nhất của chúng với người lớn, những người có thể bảo vệ chúng – nó đã từng là một nguồn an ủi. “Tớ ước gì cậu bàn bạc với bọn tớ trước, Reynie ạ.”
“Tớ xin lỗi. Tớ sợ các cậu sẽ tranh cãi.”
“Cậu đang chơi trò láu cá!” Kate nói. “Giọng điệu của cậu có ý đó. Chẳng trách tớ không chịu nổi. Tớ đã nghe cậu dùng giọng điệu đó với những người khác, nhưng chưa bao giờ với chúng tớ cả. Tớ phải nói là tớ không thích nó.”
“Xin lỗi,” Reynie lại nói. Giọng có phần mệt mỏi. Cậu ngồi xuống cái giường tầng đối diện với giường của Constance. Cơ thể cảm thấy nặng như chì, như thể cậu đã thêm vào cả năm chục cân vậy.
“Reynie,” Constance lặng lẽ nói.
Với cảm giác vô cùng miễn cưỡng, Reynie ngước lên nhìn. “Sao?”
Đôi mắt xanh nhạt của Constance đang long lanh nước mắt, Reynie nhận thấy điều gì trong đó giống như lời cảnh báo. “Cái cách anh vẫn cảm thấy về thuyền trưởng Noland ngay lúc này ư? Em thậm chí không muốn có cảm giác giống thế với anh đâu.”
Reynie thấy mắt cay cay. Cậu quay đi.
“Đừng bao giờ làm thế nữa nhé,” Constance nói. “Hứa với em đi.”
Reynie nuốt khan khó nhọc. Cậu buộc mình phải nhìn vào mắt của cô bé lần nữa. Rồi cậu nhìn Kate và Sticky, những người bạn này đang đăm đăm nhìn cậu vẻ thắc mắc và không một chút nào tổn thương cả. Sẽ thật khủng khiếp đối với mấy đứa bạn nếu họ cảm thấy không thể tin tưởng ông ta, Reynie biết điều đó. Còn đối với Constance điều đó chắc hẳn là tồi tệ nhất.
“Anh hứa,” Reynie nói.
Từ cái cách Constance mỉm cười, cậu hiểu cô bé đã biết cậu có ý đó.
***
Reynie thức dậy sáng sớm hôm sau với một cảm giác như kiến bò rất khó chịu. Cậu đã lơ là không suy xét kỹ một điều gì đó, nhưng đầu óc cậu không định vị được rõ nó là cái gì. Mở mắt, cậu phát hiện Sticky đã tỉnh giấc và trông cũng có vẻ phiền muộn. Cậu ta đứng bên cửa sổ toa, trán nhăn lại nhìn chăm chăm ra bầu trời xám xịt.
“Vừa tròn một ngày cuối cùng,” Sticky thì thầm khi thấy Reynie đã tỉnh dậy. “Ngày mai là hạn chót.”
Reynie u ám gật đẩu. “Chúng mình đang ở đâu?”
“Hà Lan. Tớ vừa trông thấy biển báo.”
Chúng đã ngủ cả hành trình đi xuyên qua hầu hết Bồ Đào Nha và cả nước Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ. Đối với Reynie điều này không có gì ngạc nhiên cả, vì mệt mỏi quá mức đã khiến cả bọn ngủ mê mệt đêm hôm trước – chúng thậm chí còn không buồn ăn tối. Mấy đứa đang ngáp ngắn ngáp dài trong khi cố hỏi han Reynie về thuyền trưởng Noland, thì bị nhân viên trên tàu đến kiểm tra vé cắt ngang. Ngạc nhiên khi thấy lũ trẻ đi du lịch một mình, người nhân viên này yêu cầu có vài lời giải thích, đến lúc ông ta đi rồi chúng cũng hoàn toàn mệt nhoài. Chúng lo sợ thì thầm chúc ngủ ngon trước khi bổ nhào xuống giường của mình.
Tiếng nói của mấy đứa đã thức dậy khiến Constance tỉnh giấc, mắt nhắm mắt mở cau có, Kate thì trông khá sảng khoái, vươn vai và buộc mái tóc đuôi ngựa của mình. Chúng dậy và gia nhập bọn với Sticky bên cửa sổ, nhìn đăm đăm ra khung cảnh vùng đổng bằng xa lạ. Không ai trong bọn nó từng tới Hà Lan trước đây. Thực sự có những cối xay gió và những con kênh đào ở đây, khi đoàn tàu vào thành phố chúng thấy những tòa nhà cổ đáng yêu từ cả hai bên. Sticky nói cầu thang trong các tòa nhà này thường quá hẹp và vặn xoắn đến nỗi đổ đạc trên các tầng cao phải được cẩu lên bằng dây thừng và mang vào qua cửa sổ. Constance nói cô bé quá đói để quan tâm đến đống đồ nội thất đó – nó có thể là tổ hợp những yêu tinh người lùn, vì đó là tất cả những gì cô bé quan tâm – và nếu Sticky muốn chào hàng thông tin hữu dụng, thì có lẽ cậu có thể nói cho cô bé biết phải tìm nhà hàng ở chỗ nào trên đoàn tàu này.
“Buổi sáng tốt lành, Constance,” Reynie nói.
Cả bọn đều đã đói – thực tế là chết đói – và trong toa nhà ăn chúng gọi nhiều thức ăn đến nỗi bồi bàn phải nhướn mày và hỏi xem chúng có tiền không trước đã. Tuy nhiên, chúng có nhiều hơn cả mức tiền để nhồi cho bản thân đến đờ đẫn ra, vậy là chúng thực hiện ngay. Sau đó Sticky nói cậu có vài việc phải làm và sẽ nhập hội với cả bọn sau.
“Anh ấy đi kiếm người để lòe người ta thì có,” Constance nói khi chúng quay lại khoang riêng của mình.
“Đừng khắt khe với cậu ấy quá;” Kate nói. “Cậu ấy không thể luôn kiềm chế mình được, em biết mà. Chị tưởng tượng nếu em biết được nhiều như Sticky thì cũng thật khó mà không để lọt vài điều ra khi có dịp. Cậu không nghĩ thế à, Reynie?”
Reynie đang ở bên cửa sổ, đắm chìm trong suy tư riêng. “Hả? Ờ, có chứ, có lẽ vậy.”
“Được rồi, tâm trí anh đang để đâu thế?” Constance hỏi cậu. “Anh trông thật buồn cười. Ý em là kỳ lạ hơn bình thường.”
“Anh vẫn luôn cảm thấy không thoải mái về vài chuyện,” Reynie nói, “và anh vừa mới nhận ra đó là gì. Nếu thuyền trưởng Noland nghe được cậu nói trên điện đàm, Kate ạ – điều đó chúng ta không thể chắc chắn được – thì ông ấy sẽ không mất nhiều công điều tra để biết được chúng ta đang hướng tới nơi nào. Cậu đã nói chúng mình ở nhà ga. Nếu thuyền trưởng Noland miêu tả hình dáng chúng mình cho nhân viên bán vé, họ có thể cho ông ấy biết chúng ta mua vé tới Thernbaakagen.”
Kate nhún vai. “Vậy thì sao? Tớ biết cậu không tin ông ấy, Reynie – và có lẽ ông ấy không phải là người đáng tin nhất mà chúng ta biết – nhưng ông ấy là bạn của ngài Benedict mà. Ông ấy không có lý do nào để cố ngăn cản chúng ta cả.”
“Có thể không,” Reynie nói, cậu không thể vứt bỏ cảm giác lo lắng rằng lòng trung thành của thuyền trưởng có thể bị dao động. “Nhưng ngay cả nếu ông ấy muốn giúp tụi mình, liệu tụi mình có thể tin tưởng ông ấy sẽ đưa ra quyết định đúng đắn không? Nếu ông áy quyết định báo cảnh sát thì sao? Ông ấy có thể nghĩ chúng mình cần bảo vệ. Theo như tất cả những gì bọn mình biết, cảnh sát sẽ đợi sẵn ở Thernbaakagen để bắt giữ chúng mình. Nếu điều đó xảy ra, chúng mình sẽ không bao giờ có thể giúp ngài Benedict và Số Hai.”
“Cậu có quan điểm của mình,” Kate thừa nhận. “Cậu đang gợi ý điều gì?”
“Chúng mình nên xuống tàu,” Reynie đáp. “Chỉ để an toàn thôi. Chúng mình xuống tàu ở bến kế tiếp, trước khi tới ga chính.”
Kate và Constance nghĩ đây là một kế hoạch đầy cảm tính. Tất nhiên cẩn thận cũng sẽ chẳng tổn hại gì. Nhưng chúng vẫn muốn biết tại sao Reynie lại nghi ngờ thuyền trưởng Noland quá mức thế.
“Chuyện đó lúc này không quan trọng, không phải sao?” Reynie nói, cậu cảm thấy buồn nhưng không hề thấy tội lỗi, vì thiếu tin tưởng người bạn của ngài Benedict. Có lẽ cậu không thể đừng được việc cậu cảm thấy thế nào về thuyền trưởng, nhưng ít nhất cậu có thế tránh nói xấu ông ấy.
“Tớ nghĩ nó cũng chẳng có gì quan trọng,” Kate nói bằng giọng khó chịu, lạnh lùng, “khi chứng kiến cái các cậu chọn để cắt đứt liên lạc với ông ấy.”
Reynie nhìn xuống sàn. “Tớ thật sự thấy có lỗi vì cư xử theo cách đó. Tớ biết việc làm đó không thể tha thứ được, và...”
Kate cười khúc khích và vỗ đồm độp vào cánh tay cậu. “Trời ạ, Reynie, tớ đã làm cậu thấy khổ sở rồi! Cứ như ai cũng có thể giữ ác cảm với cậu không bằng!”
“Em có thể,” Constance nói, trừng mắt với cậu. Sau đó, cả cô nhóc cũng đập đập lên cánh tay cậu, lấy làm vui vẻ.
Reynie vội vã ra ngoài để tìm một tờ lịch trình tàu chạy, ba đứa cùng nhau tham khảo rồi quyết định xuống tàu ở một thị trấn có tên là Naansemegen nằm ngay ở ngoại ô Thernbaakgen. Từ đó chúng sẽ bắt xe buýt hoặc taxi để đến khách sạn của mình. Chúng vẫn còn đủ tiền để thực hiện hành trình đó, và Reynie còn sắp sửa gợi ý cả bọn mua một tấm bản đồ vùng này thì một sự ngạc nhiên lớn xảy đến khi Sticky về mang theo một cái bản đồ y như thế.
Hình như cậu ta đã viết ra một lời đề nghị bằng mọi thứ tiếng phổ thông ở Tây u (bất chấp việc trình bày hơi có phần sai lệch của cậu với ngài thuyền trưởng, cậu quả thật biết đọc hầu hết các ngôn ngữ này, nếu không phải là biết nói) và chìa nó ra với hết hành khách này tới hành khách khác cho tới khi có người cuối cùng cho cậu mượn tấm bản đổ này. “Tớ hứa trả lại nó trước khi đến trạm dừng kế tiếp,” cậu nói. “Trong khi đó tớ tính là tất cả chúng mình có thể xem qua nó.”
Reynie để ý thấy Sticky không nói điều cậu ta có thể nói, đó là tự cậu cũng dễ dàng ghi nhớ được tất cả các đường phố và các điểm giao thông trên bản đồ. Không nghi ngờ gì Sticky đã có dự tính như thế – hoặc đã làm điều đó rồi – nhưng cậu đang cố gắng cẩn trọng trong cách thể hiện bản thân mình.
“Tớ cũng đã biết thêm vài điều khác nữa,” Sticky nói. “Có một viện bảo tàng khoa học ở Thernbaakagen. Tớ có thể chỉ cho các cậu vị trí của nó ở trên bản đồ.”
“Xuất sắc!” Reynie reo lên, hào hứng trải tấm bản đồ ra sàn tàu. “Cậu đã rất bận rộn, đúng không?”
“Tớ đã phải hỏi rất nhiều người,” Sticky nói.
“Cậu nghĩ nó là viện bảo tàng ngài Benedict đã đến à?” Kate hỏi, ngó qua vai bạn để nhìn tấm bản đồ.
“Dường như rất có khả năng đó,” Reynie nói. “Còn lý do nào khác để ông dẫn dắt chúng mình tới thành phố này?”
Sau khi Sticky chỉ cho cả bọn vị trí viện bảo tàng kia – nó nằm gần vùng ngoại ô thành phố – cậu di chuyển ngón tay lần dọc theo con đường chính, rồi gõ gõ vào một điểm giao lộ gần trung tâm tấm bản đồ. “Khách sạn của chúng mình ở đây. Khu kinh doanh thương mại.”
Reynie gật đầu. “Vậy chúng mình nên đi đến viện bảo tàng đó trước.”
“Tất cả chuyện ngu ngốc về cái viện bảo tàng kia là thế nào?” Constance cằn nhằn. “Thế còn manh mối tiếp theo thì sao?”
“Tất cả chúng ta đều biết,” Reynie đáp, khó khăn gắng tỏ vẻ nhẫn nại, “Ngài Benedict không bao giờ có cơ hội để lại manh mối tiếp theo. Có thể có, mà cũng có thể không có bất cứ thứ gì dành cho chúng ta ở khách sạn kia. Tụi mình không biết khi nào hay ở đâu ngài ấy bị bắt. Bảo tàng kia chính là một đầu mối, Constance ạ. Chúng mình cần tới đó, và vì nó gần hơn nên tụi mình nên đi trước, để tiết kiệm thời gian.”
Constance chớp chớp mắt vài lần trong khi lời Reynie nói ngấm dần. “Em hiểu rồi,” cô bé nói. “Chuyện đó không liên quan gì tới em.” Với đôi môi run run, cô nhóc nhào vào giường nằm xuống nhắm tịt mắt lại, mấy ngón tay bao quanh mặt dây chuyền trên cổ.
Mấy đứa còn lại đưa mắt nhìn nhau lúng túng.
Có đích đến thì có gì phải buồn tủi đến thế chứ? Đó chẳng phải là một tin tốt hay sao?
“Constance, có chuyện gì thế?” Kate hỏi. “Bọn mình sẽ đến đó nhanh thôi, em biết mà.”
“Em biết,” Constance lẩm bẩm.
“Vậy có vấn đề gì?”
“Vấn đề là nếu không có bất cứ thứ gì ở khách sạn thì sao?” Constance la lên. “Và nếu chúng mình không thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở viện bảo tàng đó thì sao? Vậy là tất cả kết thúc! Chúng ta sẽ đi vào đường cùng, và sẽ không thể cứu họ!”
Reynie cảm thấy muốn tự đá cho mình một cú. Cậu đáng nhẽ nên cẩn thận hơn trong việc lựa chọn từ ngữ. Constance đã đủ lo lắng rồi.
“Nghe này, Constance,” Kate nói bằng giọng ra lệnh Constance lập tức rơi vào im lặng và tập trung lắng nghe với vẻ ủ rũ – cả hai tên con trai cũng vậy. Kate nói chuyện nghiêm túc thế thật không giống cô bạn mọi khi.
“Hãy nhìn Reynie đi,” Kate nói.
Constance nhìn Reynie, cậu còn không biết tại sao mình lại bị nhìn như vậy nhưng cậu cố gắng hết sức tỏ vẻ tự chủ và kiên định.
“Nhìn Sticky đi,” Kate nói.
Constance lại làm theo, dưới ánh nhìn chăm chăm soi mói đó, Sticky cảm thấy một sự thôi thúc khủng khiếp muốn lau chùi hai cái mắt kính. Cậu kháng cự lại cảm giác đó, thay vào đấy khẽ nghiêm trang gật đầu với cô bé.
“Giờ hãỵ nhìn chị này,” Kate nói.
Constance lại làm theo – và gần như giật mình trước điều trông thấy. Kate như có kích thước to lớn gấp đôi. Cô bé đã lùi lại, hai vai mở rộng, quai hàm bạnh ra, có điều gì đấy ẩn trong tư thế của Kate gợi cho người ta liên tưởng đến khí thế oai hùng tàn bạo của một con sư tử. Nhưng chính vẻ dữ dội trong đôi mắt xanh sáng rực của cô mới là thứ tạo nên hiệu quả gây sốc nhất. Cái ánh nhìn như thế khiến bạn phải cảm thấy biết ơn vì cô bé không phải kẻ thù của mình.
“Mọi thứ chỉ kết thúc,” Kate thẳng thừng nói, “khi nào chúng ta nói vậy.”
Lúc đoàn tàu dừng lại ở sân ga, một người đàn ông ăn vận bảnh bao xách theo một chiếc cặp táp đang đứng chờ sẵn trong bóng tối. Hắn quan sát các hành khách xuống tàu để tìm một con bé tóc vàng mang theo một cái giỏ. Nhưng không có đứa con gái như thế xuất hiện. Mặt hắn tối sầm lại, bước ra khỏi chỗ khuất bóng và lên tàu. Lần lượt đi qua các toa, hắn kiểm tra từng chỗ ngồi, từng khoang buồng, cho tới khi đến toa cuối cùng. Đoàn tàu trống rỗng. Quay gót giày bóng loáng, gã đàn ông sải bước nhanh chóng trở lại phía đầu tàu, ở đó gã tìm thấy nhân viên soát vé đang tán dóc với một cồng nhân bốc vác. Người nhân viên nhìn thấy ánh mắt gã đàn ông và ngừng nói, nụ cười của ông ta đông cứng trên môi. Một phút sau gã đàn ông rời đoàn tàu với thông tin mà gã cần.
Lũ trẻ đã xuống tàu ở Naansemegen.
***
Cùng lúc đó, lũ trẻ trong diện nghi vấn ấy đang rong ruổi trên những chiếc xe đạp ở đường phố Naansemegen. Chúng đang tìm kiếm bến xe buýt bên ngoài sân ga và Sticky thấy một tấm biển quảng cáo cho thuê xe đạp. Chẳng cần phải tranh cãi, thậm chí không có một chút do dự nào. Mặt trời đang tỏa nắng, chúng có đủ tiền để thuê ngay mấy chiếc xe đạp.
Constance ngồi gọn lỏn trong cái giỏ kim loại phía trước xe của Sticky, đôi chân đung đưng bên ngoài mép giỏ. Kim loại ép vào người làm cô bé cảm thấy bị kẹp chặt, nhưng không hề phàn nàn. Trước đây, cô bé chưa bao giờ được đi xe đạp và lần trải nghiệm đầu tiên này là một cảm xúc dâng trào tuyệt vời và hiếm thấy – đặc biệt là vào một ngày nắng mát mẻ thế này, và nhất là khi không cần phải guồng chân đạp. Đối với Constance, đi xe đạp thế này giống như đang lao xuống một con dốc dài êm ái, với ngọn gió dịu nhẹ vi vu thổi bên tai. Cô bé thậm chí còn thích cả cái mũ bảo hiểm của mình nữa, một chiếc mũ vòm cong màu đỏ lấp lánh, nó làm cô nhóc trông giống một cây kẹo que.
Thật là không thể nào không tủm tỉm cười cho được.
Reynie, Sticky và Kate cũng đang tủm tỉm cười. Cả bọn không thể cưỡng lại nổi. Khi những chiếc xe đạp của chúng tăng tốc, mọi nỗi lo lắng và sợ hãi vẫn đè nặng lên chúng những ngày qua dường như đều cất cánh, bốc hơi vào bầu trời trong xanh kia. Có điều chuyến đạp xe ngắn ngủi của chúng chứng minh nó là một sự cứu cánh tạm thời, một thoáng thoát khỏi những lo âu trầm trọng nhưng hoàn toàn thú vị.
Có rất nhiều xe đạp tham gia giao thông ở Naansemegen – thậm chí còn nhiều hơn cả các phương tiện giao thông gắn máy – vậy nên bất cứ khi nào có thể, bọn trẻ lại cắt ngang đi xuyên qua các công viên, các con hẻm và vỉa hè. Một cách thật tự nhiên, Kate là kẻ đầu sỏ, hết lần này đến lần khác cô bé phóng vọt lên vòng trước mũi xe của mấy đứa bạn, tươi cười rạng rỡ đi vòng ngược lại rồi lại phóng lên tăng tốc vượt trước.
“Đó là lý do em đi xe với anh đấy,” Constance nói với Sticky, cậu cũng đã đoán ra được. Nếu cậu là Constance, cậu cũng sẽ chẳng muốn đi cùng xe với Kate. Nhưng Sticky cũng chẳng mất mát gì khi Constance khăng khăng đòi đi xe với cậu. Cậu đáp ứng yêu cầu của cô nhóc như một cử chỉ của bạn bè, một cử chỉ hòa bình, vậy nên bất chấp nỗ lực to lớn cần có cho cử chỉ đó, cậu vẫn đồng ý mà không hề phàn nàn.
Đạp xe phía sau bọn họ, Reynie có thể nghe rõ Sticky và Constance nói chuyện, cậu cảm thấy thật phấn khởi. Hai người bọn họ không còn cãi vã nữa – dù sao thì cũng đã xích mích hơn bình thường rồi. Bọn họ không cần thêm những va chạm kiểu đó khi mà phần khó khăn nhất trong chuyến hành trình vẫn còn nằm phía trước. Reynie có một nỗi nghi ngờ mãnh liệt rằng mọi chuyện sắp tới sẽ cực kỳ khó khăn, không kể đến cả nguy hiểm nữa. Jackson và Jillson hiển nhiên đã được phái đến lâu đài kia để tìm kiếm thứ gì đó, điều ấy cho thấy vẫn còn có nhiều tên tay sai khác sẽ được phái đến lần theo các manh mối này.
Reynie cau mày. Đúng như thế, nỗi khiếp hãi cũ lại ào trở về với cậu. Chỉ mới mười giây trước cậu còn đang tận hưởng niềm vui đạp xe trên đường, cảm thấy vui vẻ khi nhìn Sticky và Constance hòa thuận. Giờ đây cậu lại đang nghĩ đến những Gã Số Mười. Khoảnh khắc được trì hoãn kia quả là ngắn ngủi.
“Bên trái!” Sticky gọi to.
Phía trước, Kate liền rẽ trái. Chúng đã dùng tấm bản đồ mượn được để quyết định lộ trình và đang trông cậy cả vào trí nhớ của Sticky để đi những đường vòng. Bây giờ con đường mòn này dẫn họ đi qua một cây cầu bắc qua một con kênh, ra khỏi Naansemegen và đi vào Thernbaakagen. Không có đặc điểm khác biệt rõ ràng nào giữa hai nơi này – Naansemegen chỉ hơi nhỏ hơn một thị trấn lớn – nhưng khi lũ trẻ đi qua một con đường khác với những ngôi nhà cao to bề ngang hẹp, chúng nhận thấy tâm trạng chúng đã thay đổi ngay khi quang cảnh thoáng đãng không còn nữa.
Ở Naansemegen chúng đang đi tới chỗ có thể gặp nguy hiểm. Còn ở Thernbaakagen này, chúng đã đến nơi rồi.
***
Bảo tàng khoa học ở Thernbaakagen là một tòa nhà cổ hẹp, trang nhã, xây bằng gạch, cao bốn tầng, nằm cách con đường bên cạnh bằng một cái sân nhỏ lát đá. Trên băng ghế trong sân, một người đàn ông hói đầu đang ngồi hút tẩu và đọc báo. Một cái băng vải trắng phủ trên đỉnh đầu người đàn ông – trông như ông ta đang đội một cái mũ búp bê – một dải băng chéo trước ngực bên ngoài chiếc áo khoác bằng vải tuýt cho thấy ông ta là nhân viên của viện bảo tàng này. Khi lũ trẻ đi qua cổng, ông ta ngẩng đầu lên khỏi tờ báo nhìn chúng, nhướng cặp lông mày vẻ hoài nghi – chắc hẳn ông ta nghĩ giờ này chúng đáng ra nên có mặt ở trường – và quay lại tiếp tục đọc báo.
Trong tiền sảnh viện bảo tàng, một người bảo vệ lo lắng nhìn lũ trẻ đi qua, chúng đi thẳng đến bàn lấy thông tin của một người phụ nữ trông khắc khổ với một vết cắt mới được khâu gần đây ở trên má và cánh tay trái bó bột. (Reynie băn khoăn không biết có phải bà ta và người đàn ông ở bên ngoài kia bị tai nạn cùng nhau không.) Người phụ nữ đưa cho bọn trẻ một quyển sách hướng dẫn và hỏi chúng một câu hỏi bằng tiếng Hà Lan. Sticky đã chuẩn bị cho chuyện này, cậu đưa cho người phụ nữ một tờ giấy ghi rằng chúng là học sinh trong chương trình trao đổi của Mỹ đang dã ngoại. Với một tiếng cằn nhằn, người phụ nữ lấy lại cuốn sách hướng dẫn lúc trước và đưa cho chúng một quyển viết bằng tiếng Anh. Viện bảo tàng này miễn phí, mở cửa cho công chúng ra vào tự do, cuốn sách hướng dẫn nói vậy. Các mẫu trưng bày của nó đều nằm ở ba tầng dưới, thư viện nằm ở tầng trên cùng. Bọn trẻ đi theo một tấm biển chỉ dẫn tới cầu thang cuốn.
Tim Reynie khẽ xao động khi bước vào thư viện của bảo tàng. Cậu thích nó ngay tức thì, như cậu vẫn cảm thấy thế với tất cả các thư viện, nhưng hơn hết là căn phòng này – với những chiếc bàn bằng gỗ tối màu và những tấm ván sàn kẽo kẹt – gợi cậu nhớ đến cái thư viện công cộng cổ ở quê nhà, nơi cậu và cô Perumal đã dành hàng giờ đồng hồ đi dọc theo lối đi giữa các giá sách. Mãi cho tới lúc này Reynie đã cố gắng một cách khó khăn để không nghĩ đến cô Perumal. Chắc hẳn cô phải vô cùng lo lắng cho cậu...
Reynie cảm thấy Constance siết lấy tay mình. Nó xảy ra rất nhanh – gần như ngay lập tức cô bé đã thả ra – nhưng đấy là một kiểu ra hiệu, nó nhắc cho cậu nhớ rằng Constance còn nhận thấy nhiều điều hơn mức có thể tưởng tượng. Đặc biệt là với mình, Reynie nghĩ. Cậu phải nhớ cẩn trọng với những gì mình nói, và ngay cả với những gì cậu cho phép bản thân được nghĩ đến. Constance tin tưởng cậu. Giờ cậu đã biết điều đó.
Bộ sưu tập của thư viện trong bảo tàng này toàn bộ dùng để tham khảo – không có gì được mang ra ngoài – ngoại trừ vài cuốn từ điển và những bộ sách giáo khoa, tất cả sách và các tư liệu được lưu trữ trong các gian phòng phía sau, được gọi ra theo yêu cầu mượn đọc. Bọn trẻ tiến đến bàn thủ thư và Sticky đưa ra một tờ giấy ghi chú cho người thủ thư, cô ta quan sát chúng với vẻ thích thú. Tụi nó là những người duy nhất trong thư viện, và không nghi ngờ gì là cô hiếm khi thấy trẻ con đến đây, đặc biệt là vào ngày phải đi học thế này mà không có người lớn đi kèm. Một phụ nữ trẻ có cái nhìn hồ hởi với mái tóc vàng óng rực rỡ và đôi mắt màu lục nhạt – cô thủ thư đọc mẩu ghi chú của Sticky với một thái độ ngày càng khó hiểu.
“Cháu tự mình viết cái này à?” cô hỏi Sticky bằng tiếng Anh. Cô ta trông bị ấn tượng khác thường. “Tiếng Hà Lan của cháu rất tuyệt. Nhưng cháu nói không tốt à? Cháu muốn nói tiếng Anh hơn chứ?”
“Vâng ạ,” Sticky đáp.
“Vậy thì tốt,” cô thủ thư nói và mỉm cười thân thiện. “Hầu hết người Hà Lan đều nói được tiếng Anh, cháu biết đấy.”
Sticky vội nói rằng tất nhiên cậu có biết điều này và rằng cậu viết sẵn mẩu giấy chỉ là đề phòng thôi – rốt cuộc thì theo các điều tra gần đây cho thấy khoảng mười lăm phần trăm công dân Hà Lan không nói tiếng Anh, và...
Constance đảo tròng mắt. “Những điều tra gần đây,” cô bé lầm bầm đủ lớn để Sticky nghe thấy.
Sticky đột ngột rơi vào im lặng. Cậu bắn cho Constance một cái nhìn giận dữ.
Tuy nhiên, cô thủ thư vẫn mỉm cười với cậu. “Trời, cháu quả là siêng năng! Đây chắc hẳn là lý do tại sao các cháu có mặt ở đây, trong thư viện vào một buổi chiều đẹp thế này. Tên cô là Sophie. Giờ để cô xem nào,” cô nói, rồi quay lại với tờ giấy ghi chú. “Các cháu yêu cầu vài tài liệu, đúng không? Được lưu giữ đặc biệt à?”
“Cháu đã giải thích kỹ hơn ở mặt bên kia,” Sticky nói.
Sophie lật mặt kia tờ giấy. Cặp lông mày cô nhíu lại với nhau. Cô ngước lên nhìn bọn trẻ, rồi cánh cửa phía sau lưng chúng, rồi lại nhìn vào tờ giấy. Cái nhíu mày của cô như sâu thêm. “Cô thấy chuyện này rất phiền phức đây, các nhóc ạ. Cô muốn biết chuyện gì đang xảy ra thế?”
Sticky lo lắng nhìn Reynie, cậu bạn liền nói, “Ý cô là sao ạ? Cố muốn biết gì cơ ạ?”
Sophie tỉ mỉ quan sát cậu với đôi mắt lo âu. “Tại sao tất cả lại có hứng thú với những văn bản này?”
“Tất cả hứng thú ư?”
Sophie quan sát cậu. “Có thể nào là sự ngẫu nhiên không?” Cô lắc đầu. “Nhưng các cháu có vẻ giống những đứa trẻ ngoan ngoãn.”
“Chúng cháu đều ngoan ạ,” Kate khăng khăng. “Chúng cháu không biết cô đang nói chuyện gì. Có vấn đề gì to tát với các văn bản này ư?”
“Mọi người sẽ bị tổn thương,” Sophie buồn rầu nói, “Bởi vì các văn bản mà các cháu muốn xem này.”
Mục Lục
0 nhận xét:
Đăng nhận xét