Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 13

0 nhận xét

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 13: Cỏ đêm

Thông thường, cách tốt nhất để né tránh những câu hỏi đòi lời giải đáp là tự mình hỏi lại họ, và Reynie nhanh chóng thực hiện điều đó. “Chúng cháu hy vọng cô có thể nói cho chúng cháu biết nhiều hơn,” cậu nói với Sophie. “Chính xác chuyện gì đang xảy ra thế ạ?”
“Nhưng cô nghĩ các cháu nói không biết gì cả mà,” Sophie đáp, trông có vẻ bối rối.
“Chúng cháu nghe nói có rắc rối. Chúng cháu muốn biết đó là vấn đề gì thôi ạ.”
“Cô không chắc mình muốn thảo luận về chuyện này,” Sophie nói, bây giờ cảnh giác hơn. “Cô thấy không thoải mái.”
“Làm ơn đi cô,” Kate nói. “Làm ơn giúp chúng cháu.”
Sophie dò xét nhìn cô bé. “Giúp các cháu ư? Cô không thấy làm sao...” Cô ta thở dài và luồn tay lơ đãng vuốt tóc “Được rồi. Các cháu không đọc báo à? Tuần trước có nhiều người muốn xem tài liệu này. Một vài người... những người đàn ông mặc vét, xách một cái túi xách nhỏ. Tiếng Anh các cháu gọi nó là gì nhỉ? Túi ngắn à?”
“Cặp tài liệu,” Sticky gợi ý rõ ràng.
“Phải rồi. Cặp tài liệu. Những người đàn ông này làm gì đó với nhân viên bảo vệ. Ông ấy bây giờ vẫn còn phải ở bệnh viện. Vài nhân viên bảo tàng tới giúp ông ấy. Họ bây giờ cũng đang ở bệnh viện. Mọi người đều ở đó ngoại trừ ba chúng tôi là không bị thương nhiều lắm. Dù bây giờ tất cả chúng tôi đều thấy sợ. Đã có một nhân viên bảo vệ mới, nhưng ông ấy cũng sợ.”
“Những người đàn ông đó đã đánh cắp các tài liệu này ạ?” Reynie hỏi, lo sợ trước câu trả lời của cô.
“Không, bởi vì bọn chúng là những tên ngốc,” Sophie chua chát nói. “Bọn chúng đòi xem các văn bản đó, và khi cô không trả lời nhanh – chúng rất đáng sợ, cháu hiểu không – chúng làm cô bị đau nên cô không thức dậy. Từ đó là gì nhỉ? Bất tỉnh à? Chúng làm cô bất tỉnh, khi cô mở mắt ra thì chúng vẫn đang cố tìm các tài liệu này. Chúng không hiểu cách sắp xếp của thư viện, cháu biết đấy. Chúng giận dữ và làm đảo lộn hết cả. Nhưng ngoài đường có tiếng còi hụ. Cảnh sát đang đến, nên mấy gã đó quyết định phải rời đi. Cô quát mắng khi chúng rời đi: “Đây là thư viện công cộng miễn phí! Tất cả những gì các người phải làm là yêu cầu thôi!”
Sophie rùng mình. “Những gã đàn ông đó, chúng... chúng làm cô bị sốc” – cô làm mấy động tác bằng tay, như thể biểu diễn có thứ gì đó bay ra từ cổ tay cô – “bằng những tia điện nhỏ.” Sophie nhanh chóng che mắt. Chứng tỏ cô đang cố không khóc.
Constance bước đến gần bàn và lặng lẽ nói, “Cháu biết cảm giác đó như thế nào, cô Sophie ạ.” Những đứa còn lại nhìn cô bé vẻ kinh ngạc. Chúng đã nhất trí là không để lộ ra bất cứ thông tin gì về bản thân. Reynie đặc biệt kiên quyết nhấn mạnh rằng chúng không được tin tưởng ai và không tiết lộ gì cả. Bây giờ Constance lại thừa nhận thẳng thừng rằng chúng đã từng chạm trán những Gã Số Mười, và do đó chắc chắn phải có dính líu đến vụ việc không hay ho này. Sẽ là một phép màu nếu chúng không bị cảnh sát bắt giữ trong vòng một giờ nữa.
Sophie hạ tay xuống bán khoăn nhìn Constance, cô bé nói, “Những cái đồng hồ đeo tay đó và những tia điện. Cháu biết nó có cảm giác thế nào. Chúng cũng đã làm cháu bị sốc.”
Sophie nhìn Constance chằm chằm không nói gì. Rôi cô ta với qua bàn – phải với hết sải tay – nhẹ nhàng đặt bàn tay lên má cô nhóc nhỏ xíu. Constance, cô nhóc vốn thường xuyên nổi quạu dù chỉ bị vỗ nhẹ lên tay, lại không rụt lại hay thậm chí ngập ngừng nao núng. Cô bé đáp lại ánh nhìn đăm đăm thông cảm của Sophie với một vẻ mặt biết ơn và thông cảm từ cả hai phía.
“Cô rất tiếc,” Sophie nói. “Các bé, lại đây và ngồi xuống bàn đi nào. Cô không hiểu lý do thật sự của các cháu, nhưng cô sẽ mang cho các cháu xem những tài liệu đó.”
***
Cả bọn chọn một cái bàn đối diện ở cuối phòng, cách xa bàn của cô thủ thư, để chúng có thể thấp giọng nói chuyện mà không bị nghe lỏm. Sophie xuất hiện ra từ căn phòng phía sau mang theo một cuốn nhật ký và một chồng văn bản mỏng trong một cái phong bì bảo vệ. Cô đặt cuốn nhật ký lên bàn và cẩn thận lấy các văn bản ra khỏi phong bì. Trang trên cùng phủ đầy chữ viết tay, và không ngạc nhiên khi nó được viết bằng tiếng Hà Lan.
“Chúng ta có thể nói chuyện sau, nếu các cháu muốn,” Sophie nói. “Như là về thứ này...” Cô đặt một ngón tay lên tập tài liệu. “Cô phải đề nghị các cháu cẩn thận và giữ mọi thứ trong tầm mắt ở trên bàn, nơi cô có thể trông thấy nó từ bàn của mình. Giờ đó là quy định đấy, để bảo vệ các tư liệu. Cô hy vọng các cháu hiểu. Cái đó không có nghĩa là cô không tin tưởng các cháu.”
Lũ trẻ cam đoan với Sophie là chúng đã hiểu cả. Cô bèn quay lại bàn làm việc của mình, từ đó lũ trẻ có thể thấy cô đang hít thở chầm chậm để lấy lại bình tĩnh, thậm chí cả khi cô đưa mắt quan sát chúng ngang qua căn phòng với vẻ đầy trách nhiệm.
Cuốn nhật ký, là một quyển sổ cũ kỹ, méo mó, được làm từ chất liệu rẻ tiền, các trang được giữ lại với nhau bằng một cái gáy sách đang trong tinh trạng hư hỏng nặng. Các tư liệu kia cũng cũ kỹ ngang ngửa thế, tất cả đều ố vàng theo thời gian, một số trang giấy còn rã cả ra như vỏ củ hành tây. Sticky run rẩy kéo đống tài liệu lại gần mình. Những đứa còn lại quan sát với sự tập trung cao độ. Sticky một lần nữa dùng miếng vải lau đi lau lại cặp mắt kính, rồi hồi hộp cẩn thận, mở cuốn nhật ký ra.
Thật là một việc kỳ lạ khi quan sát Sticky đọc. Hai mắt cậu dường như không hề chuyển động, vì chúng như hấp thu vào những khoảng chữ viết lớn trong cùng một lúc. Câu nhìn chằm chằm vào một trang giấy trong khoảng một hai nhịp thở, rồi lật giở nó. Nhìn chằm chằm, thở, rồi lại lật. Cứ như thế cuối cùng cậu ta đọc hết cuốn nhật ký chỉ trong vài phút và những tài liệu khác trong vài phút nữa. Nhưng Sticky ghi nhớ các thông tin với một tốc độ nhanh hơn cả việc cậu hiểu nó, một khi đã hiểu thỉnh thoảng cậu lại có khó khăn trong việc tóm tắt nó. Cậu có thể sẽ cần ít thời gian để sắp xếp trật tự các ý nghĩ của mình.
Chúng cần phải nhẫn nại, Reynie tự nhắc mình, bất chấp cảm giác những Gã Số Mười có thể xộc vào cửa bất cứ lúc nào. Cả bọn không được gây áp lực quá nhiều cho Sticky. Khi bị xáo động, Sticky có thể trở nên rất kích động và bối rối. Cậu ít bị ảnh hưởng xúc động trong tình huống như thế vào những ngày này, nhưng khả năng đó vẫn tồn tại. Nó là nguồn gốc lâu dài của sự ngượng ngùng ở cậu.
Dù vậy, ngay cả khi đang chìm đắm suy ngẫm thế này, Reynie vẫn nhận thấy một sự thay đổi phảng phất thoáng qua trong thái độ của Sticky. Ban đầu nó rất khó xác định. Sticky đánh dấu một điểm trong cuốn nhật ký bằng ngón tay cậu, rồi kiểm tra các trang tài liệu kia. “Những bức thư,” cậu ta nói, thoáng ngước lên liếc nhìn mọi người. Cậu nghiên cứu lá thư trên cùng với một vẻ rất nghiêm túc, sau đó đặt nó qua một bên và quay lại với cuốn nhật ký, lần đầu tiên điều chỉnh cặp kính của cậu bằng một cử chỉ gần như lơ đãng, vẻ học giả. Gần như thẫn thờ, nhưng không hoàn toàn. Giờ Reynie đã hiểu: Sticky đang cảm thấy tầm quan trọng của cậu ấy.
Reynie thấy rõ Sticky đang vật lộn với cái tôi của mình hơn bao giờ hết kể từ khi chúng gặp lại nhau ở trang trại nhà Kate, và Reynie sẵn sàng tha thứ cho những cơn hứng khởi phù phiếm của cậu bạn mình. Cánh con trai đã thông suốt cùng nhau rất nhiều rồi, và Reynie nghĩ mình hiểu lòng Sticky cũng như bất cứ ai – và biết rằng thực ra tấm lòng ấy cao quý và dũng cảm hơn hầu hết những người khác. Sticky là một đứa trẻ bất kham và sợ hãi, nhưng cậu luôn luôn làm việc đúng đắn đến cuối cùng, cho dù hoảng sợ thế nào đi nữa. Theo quan điểm của Reynie, điều này khiến cho Sticky trở thành một trong những người dũng cảm nhất mà cậu biết. Nếu có đôi khi cậu ta hành động như một con công đực vênh vang, thì điều đó cũng không phải là một trọng tội gì ghê gớm lắm, dù thế nào nói chung Sticky có thể trông chờ Kate và Constance nhổ hết lông mà.
Sticky nhanh chóng hoàn thành việc đọc tài liệu. Cậu mím môi và tháo cặp kính ra, bằng chứng cho thấy đang đắm chìm vào suy tư. Mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không vô định, cậu lau cặp kính, đeo lại nó và hít vào một hơi thật sâu trầm tư xoa xoa cằm đúng y cái cách Reynie thường làm. Reynie đột nhiên cảm thấy bực phát cáu – quá mức không thể tha thứ được – nhưng cậu vẫn giữ mồm giữ miệng, quyết tâm không kéo Sticky khỏi việc suy nghĩ cho mạch lạc.
Tuy nhiên, Constance đã leo xuống khỏi ghế (hai cánh tay của cô nhóc quá ngắn từ chỗ ngồi không với sang Sticky được), bước qua tới cạnh cậu ta, vỗ đồm độp lên bàn tay cậu với tất cả sức lực có thể. Cô bé đánh vào cái tay Sticky đang dùng để xoa cằm, cơn đau từ cú vỗ của cô nhóc đồng thời với phản ứng giật mình là nguyên nhân khiến Sticky giật nảy tay lên, hất tuột cả cặp kính mắt. Kate nhoài người ra, trong chớp mắt đã bắt được nó – tay kia cô tóm lấy Constance đang chồm ra sau chuẩn bị đập một cú khác.
“Nghiêm chỉnh lại đi!” Constance rít lên khi Sticky chớp mắt nhìn cô bé cảnh giác với đôi mắt mờ mờ không rõ.
“Hãy thôi tìm kiếm vinh quang đi và kể cho chúng em câu chuyện đó ngay đi!”
Mặt Sticky chuyển sang sưng sỉa. “Anh đang cố nghĩ xem phải giải thích nó bằng tiếng Anh như thế nào,” cậu nói, nhận lấy cặp kính mắt từ Kate. “Em không thể đánh người ta như thế khi mình không được thỏa mãn, Constance ạ.”
“Coi chừng em đấy!” Constance quát, cố gắng thoát khỏi cái nắm tay của Kate.
“Constance,” Reynie lên giọng. Cậu hất đầu về phía bàn làm việc của cô thủ thư, nơi Sophie đã đứng dậy khỏi ghế và đang chăm chú nhìn lũ trẻ lo lắng. Cậu vẫy vẫy Sophie. “Ổn cả. Xin lỗi cô. Chúng cháu ổn cả mà.” Và khi Sophie với vẻ bán tín bán nghi, lại ngồi xuống, cậu thì thào nói. “Cả hai muốn đánh nhau thì để sau. Ngay bây giờ chúng ta phải giải quyết xong chuyện này đã, được chứ?”
Sticky và Constance trừng mắt nhìn nhau, nhưng cuối cùng cũng gật đầu, và Constance leo trở lại ghế ngồi của mình. Sau khi Sticky mất một lúc để lấy lại bình tĩnh (nhưng chỉ một chốc lúc này, và không có bất cứ lời tâng bốc nào), cậu kể cho cả bọn những gì đã biết: cuốn nhật ký của mẹ ngài Benedict, Anki Benedict, còn những lá thư kia là từ chị gái của bà ở Mỹ – dì của ngài Benedict – và từ một nhà bác học đồng sự, một người bạn thân của bố mẹ ông tên là Han de Reizeger.
“Cái tớ đọc được lý giải được rất nhiều điều,” Sticky nói. “Có điều, gia đình Benedict không mong đợi sinh đôi. Anki vài lần ám chỉ đến “đứa bé” sắp đến – một đứa bé, không phải hai đứa – và nếu là con trai họ sẽ đặt lên là Nicholaas.” Sticky chỉ vào cái tên trong cuốn nhật ký. “Hiển nhiên, người dì sau đó đã thay đổi cách phát âm nó.”
“Rõ ràng rồi,” Constance nói bằng giọng chế giễu.
Sticky co rúm lại nhưng không đáp lời. “Không có ghi chép nào nữa sau cuộc sinh nở,” cậu nói, “Điều đó giải thích tại sao viện bảo tàng không biết về một đứa trẻ song sinh. Chỉ có ngài Benedict được liên lạc về các giấy tờ này, dù hiển nhiên lão Curtain cũng đã phát hiện ra chúng.” (Cậu cứng người, chờ đợi một nhận xét chế giễu khác, nhưng lần này Constance kiềm chế được.) “Những Gã Số Mười đó có lẽ không chạm được tay vào cuốn nhật ký này, nhưng bằng cách nào đó lão Curtain biết được thứ ngài Benedict tìm thấy trong đó, đó là bố mẹ họ có thể đã tìm ra một phương thức chữa chứng ngủ rũ...”
“Thật sao?” Reynie và Kate cùng đồng thanh thốt lên.
“Nó có thể,” Sticky nói, “nhưng không chắc chắn. Đó là một loài thực vật hiếm...”
“Một loài thực vật hiếm có!” Kate thốt lên.
“Ý anh muốn nói giống như ‘thực vật hiếm’ mà lão Curtain nhắc đến trong thư của ông ta ấy hả?” Constance hỏi.
Sticky mím chặt đôi môi. Thật khó giải thích điều gì khi cứ luôn bị chen ngang, nhưng Sticky cảm thấy cậu không thể nói vậy mà không bị kết tội là kiêu ngạo, tự cao tự đại.
Reynie đến cứu nguy cho cậu. “Xin lỗi, chúng mình để cậu nói nốt đã, đúng không? Tiếp đi, Sticky.” Đám con gái tiếp tục tập trung cao độ.
“OK,” Sticky đáp. “Chúng mình quay trở lại một chút nhé. Thực tế bố mẹ ngài Benedict cũng bị mắc chứng ngủ rũ. Không chỉ một người trong bọn họ, mà cả hai người.” Sticky lật giở lướt cuốn nhật ký. “Anki viết ở đây rằng bất chấp cảm giác bị nguyền rủa, bà và chồng bà cảm thấy được ban phước, bởi vì họ cùng chia sẻ với nhau tình trạng này – và cả sự hứng thú khoa học nữa – điều đó dẫn dắt họ gặp gỡ nhau.”
“Bà có nói đôi chút việc họ làm việc cùng nhau ăn ý như thế nào, người này luôn đánh thức cho người kia, vì hiếm khi họ cùng ngủ gục một lúc. Và tớ phải nói, cả hai người bọn họ đều xuất sắc đến kinh ngạc. Họ đang lên kế hoạch cho vài dự án nghiên cứu ấn tượng – tất cả những gì họ thiếu là tiền để bắt đầu – và họ đã xuất bản một số bài viết về chứng ngủ rũ. Nhưng những bài viết này không liên quan gì tới loài thực vật hiếm. Loài thực vật này không bước vào bức tranh toàn cảnh này cho tới gần cuối cuốn nhật ký – gần cuối đời họ, tớ cho là thế – khi họ nhận được lá thư này.”
Cẩn thận đưa ra cho cả bọn, Sticky đặt sang bên cạnh ba trang giấy từ tập thư ra (những lá cuối cùng, Reynie để ý thấy thế, có một khoảng hình chữ nhật bị khoét xuyên qua chính giữa). “Lá thư này là từ một người bạn khoa học gia của họ, Han de Reizeger. Ông ấy nói với họ rằng đã tìm ra những mẫu vật sống của translucidus somniferum – còn được biết đến như là cỏ đêm – trước đây được tin là đã tuyệt chủng.”
Sticky ngập ngừng. “Tớ... tớ có thể nói cho các cậu biết một chút về loài thực vật đó, nếu các cậu quan tâm. Ý tớ là tớ đã đọc về nó trước đây.”
“Dĩ nhiên bọn tớ quan tâm chứ, cậu ngốc thật đấy!” Kate vừa nói vừa cười. “Cậu đang đùa à? Loài thực vật đó là chìa khóa cho toàn bộ vụ việc này mà!”
“Ừ, chỉ là đôi khi...” Sticky nhún vai. “Được rồi. E hèm. Cỏ đêm xuất hiện trong một vài văn tịch cổ xưa, nhưng chỉ rất ít thôi. Nó được cho là có sức mạnh mạnh vô cùng – ngửi thoáng qua hương vị của nó cũng có thể khiến người ta chìm vào giấc ngủ – và nó thường được cho là một thứ trong truyền thuyết. Có một câu chuyện cổ của Norse về một bữa tiệc của cướp biển người Viking tràn vào một ngôi làng vào một buổi chiều đầy sương mù, và phát hiện ra mọi cư dân ở đó đều đang say ngủ. Không phải ngủ trên giường của họ, cũng không phải trên mặt đất mà là dựa vào tường, ngủ gục trên bàn làm việc – ở khắp mọi nơi.”
“Những người Viking mất nhuệ khí đến nỗi không dám chạm vào bất cứ thứ gì. Bọn họ đi xuyên qua làng, quan sát tất cả những người đang ngủ. Ở phía tít xa bên kia ngôi làng, bọn họ tìm tháy một cậu bé đang nằm cạnh một cái bếp lò đang âm ỉ cháy, tay nắm chặt một mảnh vụn nhỏ xíu của cỏ đêm. Rõ ràng cậu bé đó đã ném một ít vào bếp than, và khói của nó tỏa ra đã khiến mọi người trong ngôi làng ngủ hết, thậm chí dù nó chắc chắn chỉ là một làn khói nhẹ nhất thoáng qua. Các cậu có thể tưởng tượng nổi không?”
“Khói thiêng!” Kate nói, liếc mắt nhìn quanh xem những người khác có hưởng ứng câu đùa nho nhỏ của mình không. Dù vậy, bọn họ chẳng đáp lại, cô đành phải thừa nhận nó không đáng lặp lại, vậy nên chỉ nói thêm. “Đó là một loài thực vật đầy sức mạnh.”
“Quyền năng nhưng mong manh,” Sticky nói. “Cỏ đêm chỉ sinh trưởng trong những điều kiện nhất định và nếu nó bị di chuyển khỏi vùng đất đó, nó sẽ tan rã phân hủy ngay lập tức. Tớ biết được điều này từ cuốn nhật ký. Gia đình Benedict đã tìm thấy vài mẫu vật một năm trước – Anki không nói là ở đâu – và mang nó trở về phòng thí nghiệm của họ để nghiên cứu. Nó nhanh chóng hóa thành bụi, nhưng sau khi họ đã cảm thấy khá tin tưởng nó có thể chữa trị chứng ngủ rũ, hoặc ít nhất cũng loại trừ đi các triệu chứng xấu nhất. Loài cỏ đêm này chỉ cần trộn lẫn với mấy hóa chất khác – những chất hóa học thông thường mà bất cứ khoa học gia nào cũng dễ dàng thu được.”
“Và họ biết nơi có thể tìm thấy nó nhiều hơn,” Reynie nói. “Nhưng họ chưa bao giờ tạo ra được phương thuốc đó. Vậy có gì không ổn à?”
“Không may là họ đã gặp một cú sốc thất vọng,” Sticky nói. “Họ trở lại tìm kiếm một mẫu vật khác, thì phát hiện ra cái cây thứ hai này không phải cỏ đêm – nó chỉ là một sự bắt chước tài tình. Nó trông giống hệt cỏ đêm và sống đúng trong các điều kiện giống hệt như thế, nhưng hầu hết các thành phần hóa học quan trọng của nó thì lại khác. Nói cách khác, nó vô dụng. Thực ra còn tệ hơn cả vô dụng, bởi vì nó cứng rắn hơn và hung tính hơn, điều đó lý giải vì sao cỏ đêm quá hiếm hoi – nếu nó có còn tồn tại chút nào, thì giờ họ cũng đã vô tình hủy hoại mất mẫu vật duy nhất biết được. Họ tin loài thực vật giả mạo này – Anki gọi nó là ‘cỏ-phá-hoại’ trong nhật ký – đã xâm lấn môi trường sinh sống của cỏ đêm, trong quá trình đó giết chết tất cả cỏ đêm. Gia đình Benedict quay trở lại lùng sục nơi họ đã tìm thấy cỏ đêm lần trước, nhưng thật không may. Chẳng có gì ngoài cỏ-phá-hoại.”
“Vậy làm sao họ có thể chắc chắn là người bạn của họ – cái ông Han ấy – đã tìm được cỏ đêm thật?” Constance hỏi.
“Vợ chồng Benedict đã cho ông ta xem nghiên cứu của họ,” Sticky nói. “Nên Han biết phải tìm gì. Ông ta dùng kính hiển vi để nghiên cứu các loài thực vật ngay ở nơi tìm thấy chúng. Ông ta đã nghĩ tất cả chúng đều là cỏ-phá-hoại, và một số đúng là thế, nhưng hầu hết còn lại là cỏ đêm. Thực tế là rất nhiều, rất nhiều cỏ đêm.”
Reynie nhíu mày. Có cái gì đó cứ làm cậu bận lòng trong suốt bài tổng kết của Sticky, nhưng cậu không thể tóm được nó là gì mãi cho tới lúc này. Nếu vợ chồng Benedict thật sự tìm thấy cỏ đêm, không phải đó sẽ phải là khám phá khoa học của thế kỷ sao? Thế thì tại sao họ không xuất bản tài liệu về nó? Tại sao họ thậm chí không thông báo nó trên báo chí?
“Vậy thì cỏ đêm trông ra làm sao?” Kate hỏi.
“Tớ không biết,” Sticky nói.
Constance bật cười vẻ hoài nghi. “Anh không biết á? Nhưng em nghĩ anh biết mọi điều mà! Em thấy thật khó tin kinh khủng, George Washington ạ!”
“Anh không quan tâm em có tin hay không,” Sticky cấm cảu nói. “Anh thật sự không biết.”
“Mọi người bình tĩnh nào,” Reynie nói, vẫy tay ra hiệu về phía Sophie vẻ lo lắng. “Constance, cậu ấy đang nói thật đấy. Anh biết em đang buồn, nhưng nếu em bình tĩnh lại và nhìn cậu ấy, em sẽ biết điều đó.”
(Constance thật sự đang nhìn Sticky, trừng trừng không chớp mắt, và cái quắc mắt ấy có khuynh hướng làm mờ đi tầm nhìn sâu sắc hơn về mọi vật. Cô bé cố hết sức để thư giãn, đủ để nhìn thấy sự thật trong nét mặt giận dữ, thách thức của Sticky. Cậu ta thật sự không biết.)
“Cuối cùng nó cũng có ý nghĩa với mình,” Reynie nói. “Thực tế là Anki đã không nhắc đến chỗ họ tìm thấy các mẫu vật đầu tiên. Nhà Benedict không công bố những gì họ tìm thấy, cho dù đó là một phát hiện gây kinh ngạc. Các giấy tờ này được giấu đi. Tất cả đều ăn khớp lại. Họ đang giữ bí mật chuyện đó.”
“Không chỉ vợ chồng Benedict,” Sticky nói cùng với cánh nhìn sưng sỉa về phía Constance. “Các sử gia về thực vật học vẫn thường coi cỏ đêm là một trong những bí ẩn vĩ đại nhất. Trong vài văn bản cổ có nhắc đến nó, một số thường xuyên lược bỏ đi bất cứ miêu tả nào về loài thực vật này trông ra sao hay nơi nào tìm thấy nó.”
“Cũng như vợ chồng Benedict đã làm với lá thư cửa Han,” Reynie nói, chỉ ra khoảng trống bị cắt bỏ trên một trang giấy. “Tớ cho rằng đó là đoạn miêu tả về loài cỏ đêm đang bị khuyết, tớ đúng chứ?”
Sticky gật đẩu.
“Nhưng tại sao lại phải giữ bí mật?” Kate hỏi. “Nếu nó không hề quan trọng...”
“Hãy nghĩ xem,” Reynie nghiêm trọng nói. “Chỉ một chút ít thứ cỏ này đã đưa toàn bộ ngôi làng vào giấc ngủ. Vậy cậu nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu nó rơi vào tay kẻ xấu? Như cậu nói, Kate, đây là một loài cây đầy sức mạnh. Không một ai muốn kẻ xấu tìm ra nó.”
“Tuy vậy, ông bà Benedict biết điều đó,” Sticky nói. “Họ chỉ chia sẻ thông tin với những người bạn tin tưởng nhất. Han đã gửi họ những tấm bản đồ, nhưng bằng cách nào đó, chúng không có ở đây. Tớ cho rằng ông bà Benedict cũng đã hủy chúng rồi.”
“Những tấm bản đồ của cái gì?” Kate hỏi.
“Của hòn đảo nơi Han đã tìm ra cỏ đêm. Ông ấy đã gửi một bản đồ xác định vị trí hòn đảo và bản đồ của hòn đảo đó – bao gồm địa điểm chính xác của cỏ đêm. Ông ấy có miêu tả một chút về hòn đảo trong bức thư, nhưng không hề đặt tên hay nói đến điều gì để định vị nơi đó. Tớ chắc chắn ông bà Benedict cũng đã cắt phần đó ra. Hòn đảo có thể là bất cứ nơi nào trên thế giới.”
“Và lão Curtain muốn tìm ra nó,” Constance tiếp. “Và hắn nghĩ ngài Benedict biết. Bức thư của lão nói vậy, không phải sao?”
“Nhiều hơn hoặc ít hơn,” Reynie đáp. “Và các cậu biết không? Bây giờ tớ nghĩ ngài Benedict thực sự có thể biết hòn đảo ở đâu. Nếu ông ấy biết, thì câu hỏi là có phải ông đã lên kế hoạch này để đến hòn đảo đó hay không. Chúng ta sẽ phải thấy…”
“Reynie,” Kate cắt ngang, “Làm sao ngài Benedict có thể biết hòn đảo ở đâu? Những tấm bản đồ đã mất rồi!”
Reynie đang định giải thích thì cửa thư viện mở ra và người đàn ông hói đầu, quấn băng mà chúng đã trông thấy ở sân bước vào phòng. Ông ấy liếc chúng không hề có vẻ thích thú gì và đi tới bàn quản lý, xì xầm trao đổi với Sophie. Bỗng nhiên, ông ta quay phắt lại, mắt lồi ra nhìn chằm chằm bọn trẻ và vội vàng tiến đến bàn của mấy đứa, theo sau là một Sophie đầy lo âu.
“Ta là Schuyler,” Người đàn ông nói bằng thứ tiếng Anh cộc lốc. “Và ta có thể hỏi các cháu là ai không?”
“Học sinh.” Sophie tiếp lời. “Chúng là học sinh trao đổi, thưa ông Schuyler.”
Ông Schuyler ra hiệu về tập san và những bức thư. “Tại sao các cháu lại xem những thứ này?”
“Chúng biết việc đó.” Sophie xen ngang. “Chúng chỉ đơn giản muốn tìm hiểu. Chúng chỉ là trẻ con, thưa ông.”
Ông Schuyler dường như nghi ngờ lời tuyên bố đó. Cuối cùng, ông ta cằn nhằn, gặm ống tẩu thuốc của mình và nói. “Ta nghĩ rằng ta có thể kể cho các cháu vài điều sau. Đó là một câu chuyện khá thú vị.” Ông kéo một cái ghế ra, khiến Sophie phải lùi lại để tránh bị va vào đầu gối và nặng nề ngồi xuống. “Ta sẽ bắt đầu ở đâu nhỉ?”
“Lúc đầu như thế nào ạ?” Reynie hỏi.
“À. Ban đầu rất rắc rối.” ông Schuyler nói. “Các cháu thấy đấy, chỗ giấy tờ này theo pháp luật thuộc về thư viện, nhưng một người đàn ông Mỹ – con trai của những người chủ ban đầu – tranh cãi rằng ông ta có quyền đòi chúng. Ta đã nói ông ấy được tự do theo đuổi vấn đề này ở tòa, và nếu tòa quyết định như vậy thì chỗ giấy tờ này sẽ thuộc về ông ấy. Mặt khác, ta không nghĩ tòa án sẽ chấp nhận điều đó. Nhưng cho đến khi phán quyết được thực hiện thì các giấy tờ này vẫn phải để ở thư viện! Thật dễ giải quyết.”
“Người đàn ông đó đến gặp ta vào một buổi sáng và hỏi xem những giấy tờ này. Đây là một thư viện công cộng miễn phí, nên tất nhiên ông ta được phép làm thế. Sau đấy ông ta kể mình là ai và hỏi ta đã từng gặp ông ta trước đó chưa. Ta nói chưa từng và đó là sự thật. Ông ấy kể thỉnh thoảng mình phải dùng xe lăn. Không một ai trong thư viện từng biết ông ấy trước đó phải không nào? Ta cam đoan là chưa từng, và Sophie cũng cam đoan cô ấy chưa từng gặp. Cô có đồng ý với tôi đó là điều đã xảy ra không, Sophie?”
Sophie vừa mở miệng định nói thì ông Schuyler tiếp tục. “Đúng vậy, đó là điều đã xảy ra. Và cuối cùng khi chúng ta thuyết phục rằng ông ấy không nổi tiếng như mình tưởng, thì ông ấy và bạn mình – một người phụ nữ da vàng với mái tóc đỏ khiến ta nghĩ tới cây bút chì – Cô không cho rằng đó là một so sánh thông minh sao, Sophie? Rằng cô ta trông giống một cây bút chì? Tôi tin tôi đã nói vậy lúc đó – Ta đang kể đến đâu nhỉ? Ồ phải rồi. Ông ấy và bạn mình bỏ đi. Nhưng năm phút sau ta nhận được một cú điện thoại từ người đàn ông đó, và ông ta nói đã lấy đi thứ đáng lẽ thuộc về mình. Đó là điều ông ta nói và ông ta cúp máy.”
“Có thể các cháu không biết điều ông ta ám chỉ nhưng ta thì biết,” ông Schuyler tiếp. “Ta đã đi thẳng đến chỗ để cuốn nhật ký và giấy tờ, ngay lập tức ta phát hiện ra ông ta đã lấy đi hai tài liệu thuộc về những bức thư và ông ta còn cắt đi một phần trang giấy! Ông ta đã ăn cắp và hủy hoại tài sản của thư viện!”
Reynie bắt lấy chi tiết đó đầy thích thú, những điều ông Schuyler vừa nói đã khẳng định nghi ngờ của Reynie rằng ngài Benedict đã biết vị trí hòn đảo. Chính là ông ấy – không phải bố mẹ ông – đã lấy đi hai tấm bản đồ. Hơn nữa ông còn cắt đi phần bị mất của bức thư từ Han. Bố mẹ ngài Benedict đã cất giấu những tài liệu này ở một nơi bí mật. Họ chắc không nghĩ cần phải hủy những thông tin nhạy cảm chứa trong chúng.
“Ông ta đã thực hiện hành vi phạm tội,” ông Schuyler nói tiếp, “Và ta có thể chứng minh điều đó. Ông ta không thông minh như ông ta tưởng đâu!” Ông ấy chỉ vào máy quay an ninh treo trên bức tường đằng sau bàn quản lý. “Các cháu thấy không? Ta có bằng chứng. Và các cháu có tin không? Ông ta trở lại thư viện vào cùng một ngày! Tuyệt! Các cháu nghĩ điều gì đã xảy ra?”
“Ông đã gọi cảnh sát,” Reynie nói, thầm khâm phục sự khéo léo của ngài Benedict, những việc ông đã làm thật dễ hiểu. Đầu tiên ông xác định rõ liệu lão Curtain đã từng trông thấy chỗ giấy tờ này chưa (đó là lý do tại sao ông hỏi các nhân viên thư viện có nhận ra mình không). Sau đó ông cố gắng đảm bảo nếu người em sinh đôi của mình có đến thư viện này, thì hắn sẽ bị bắt giữ.
“Thực vậy,” ông Schuyler nói. “Ta đã gọi cảnh sát. Nhưng không phải lần đầu tiên ta gọi cảnh sát ngày hôm đó, trước đấy những người đàn ông mang cặp táp đến. Các cháu đã nghe về họ chưa?”
“Những Gã Số Mười?” Constance hỏi, và những đứa trẻ khác cố không để lộ vẻ lo lắng khẩn trương của mình. Constance ngay lập tức nhận ra mình lỡ lời, nhưng đã quá muộn.
May thay ông Schuyler quá hào hứng kể chuyện nên không chú ý đến lời cô bé nói. “Mười người?” ông ấy lơ đãng lặp lại. “Không, cháu nghe nhầm rồi. Chỉ có hai thôi. Mặc dù chúng còn nguy hiểm hơn mười người, thậm chí nhiều hơn. Chúng đến ngay sau khi ông người Mỹ và cô Bút Chì bỏ đi. Lúc đó, ta đang ở sân sau – các cháu thấy đấy, vị trí của ta buộc phải ra vào bảo tàng nhiều hơn...” (Bọn trẻ hiểu điều đó có nghĩa là ông Schuyler thường đi ra sân sau để hút tẩu và đọc báo.) “… và ta trông thấy chúng đi vào từ cổng, nhưng ta không nghĩ gì cho đến khi nghe thấy tiếng la hét.”
Cùng lúc đó, ông Schuyler quay lại định vỗ nhẹ vào tay Sophie nhưng Sophie đã nhanh chóng rút lại, nên ông Schuyler vỗ vào tay ghế như thể đó là điều hoàn toàn bình thường và ông ấy có ý định làm vậy.
“Những người đàn ông đó yêu cầu được xem các tài liệu có liên quan tới cái tên ‘Benedict’,” Sophie xen vào. “Cũng chính là điều được yêu cầu bởi vị khách trước. Cô biết họ đang tìm kiếm thứ gì đó, nhưng cô đã kể với các cháu rồi, lần đầu tiên cô quá sợ hãi mà không nói nên lời. Và sau đó...”
“Phải, tiếng la hét rất tồi tệ,” ông Schuyler tiếp tục khi Sophie còn chưa nói hết, “nhưng chúng đã cảnh báo ta tình hình lúc đó và khi họ trở ra, ta đã tấn công từ sau ghế dài...” (Theo lời kể này, bọn trẻ hiểu rằng ông Schuyler đã nhìn trộm từ sau thành ghế, nơi ông ấy đang co lại vì khiếp sợ.) “...nhưng một trong số chúng chĩa thứ vũ khí chết chóc vào ta. Phản xạ của ta thật tuyệt vời, ta cúi đầu xuống, nhưng vẫn không đủ nhanh để tránh bị thương.” Thật cẩn thận ông ấy chạm vào chỗ quấn băng quanh đầu mình. “Ta đã mất nhiều máu và tất nhiên, toàn bộ tóc của ta nữa.”
Bọn trẻ nhướn lông mày, và Kate cố không phì cười. Đánh giá theo kích cỡ và vị trí quấn băng, không thể có nhiều hơn nửa tá tóc trên đầu ông Schuyler. Nhưng chúng đã xuất hiện thêm khi ông Schuyler bị thương.
“Chúng nói rằng ta nên vui mừng vì ta không cao lắm,” ông Schuyler phản ứng lại. “Sau đó chúng bật cười và bỏ đi, ta đã gọi cảnh sát.”
“Chính xác hơn Eda đã gọi cảnh sát, ông Schuyler.” Sophie nói nhanh. “Ông đã gọi cấp cứu. Vì vết thương của mình.”
Ông Schuyler làm một cử chỉ tức tối với cái tẩu của mình. “Chi tiết ấy không quan trọng. Và điều chắc chắn là tôi đã gọi cảnh sát vào lần sau, các cháu, khi ông người Mỹ quay trở lại. Lúc đó ông ta đã dùng xe lăn, giống như lời ông ta kể, ông ta đi cùng một người đàn ông trẻ vụng về có bàn chân to, và một con nhóc có mái tóc dài màu đen sáng với thái độ rất hỗn xược. Cực kì hỗn láo! Ta không muốn nhắc lại từ mà nó gọi ta trước khi bỏ đi.”
Reynie và mấy đứa khác liếc trộm nhau. Chúng khá chắc ông Schuyler đang miêu tả S.Q Pedalian và Martina Crowe – những tay Điều hành viên khác đã cùng bỏ trốn khỏi Học viện với lão Curtain. Và tất nhiên người ngồi trên xe lăn chính là lão Curtain.
“Ông người Mỹ,” ông Schuyler kể tiếp, “muốn xem lại tất cả tài liệu đã nghiên cứu ban sáng. Ông ta nói mình hiểu rằng có một việc không may đã bất ngờ xảy ra với thư viện và mong rằng các tài liệu đó vẫn ở đây. Như thể ông ta không thực hiện hành vi phạm tội vậy! Như thể ông ta chưa bao giờ gọi cú điện thoại thú nhận đó! Lão già trơ tráo!”
Lão Curtain chắc không thiếu tính trơ tráo, Reynie nghĩ, nhưng điều này là một thí dụ cho việc xảo quyệt vẫn còn hơn ra vẻ anh hùng. Rõ ràng là lão Curtain muốn tìm hiểu tại sao ngài Benedict lại thăm thư viện bảo tàng, và khi những Gã Số Mười thất bại trong việc tìm câu trả lời, lão đành phải diễn trò đến thăm lần hai.
“Đúng vậy, như các cháu tin tưởng, ta khá thông minh,” ông Schuyler nói. “Ta đã không biểu hiện chút đau đớn nào, tuyệt hơn ta đã sắp đặt cái bẫy của mình. Ông ta có vẻ vội vã và muốn sao lại toàn bộ – tất cả những trang đơn lẻ của nhật ký và các lá thư – để mang theo. Ta đã nói rằng với những tài liệu dễ hư hỏng chúng ta phải sử dụng máy móc đặc biệt, và một nhân viên thư viện phải thực hiện việc sao chép. Đó là sự thật, việc đó không khiến kế hoạch của ta bớt thông minh chút nào. Khi các cháu nghĩ Sophie thực hiện việc sao chép thì ta đã bí mật gọi cảnh sát và bảo họ đến cùng lúc, nhưng không dùng còi báo động. Các cháu có hiểu điều ta dự định không? Cách đó không báo động họ! Khi những bản sao hoàn tất, và ông ta cùng cộng sự của mình bắt thang máy xuống tiền sảnh, họ đã chạm trán cảnh sát. Tất cả kế hoạch đều thông minh, ta cam đoan với các cháu.”
“Vậy nó gặp vấn đề gì?” Reynie hỏi, vì chúng đều biết hết sức chắc chắn là lão Curtain đã trốn thoát.
Ông Schuyler lắp bắp vẻ phẫn nộ. “Không kể việc ta đã làm, cảnh sát lại để chúng trốn thoát. Ông ta thình lình biến đổi từ xe lăn của mình – chắc chắn nó khiến cảnh sát ngạc nhiên – và làm điều gì đó… ta cũng không biết chính xác ông ta đã làm gì. Ông ta chỉ đơn giản chạm nhẹ vào các nhân viên cảnh sát, và họ gục xuống sàn, nằm bất tỉnh trong nhiều phút. Kẻ hung ác đã bỏ trốn cùng đồng sự của mình, ta không gặp lại lần nào.” Ông ta lắc đầu, nhìn xuống cái tẩu và bọn trẻ.
“Bài báo cáo này thật xuất sắc, ông Schuyler.” Reynie nói khi cậu biết rõ ông Schuyler mong chờ lời nhận xét. “Việc đó thật kinh khủng và cũng gây tò mò đấy. Cháu có thể hỏi ông một câu nữa về họ được không ạ?”
Ông Schuyler giả vờ kiểm tra đồng hồ, sau đó thở dài vẻ khoan dung, trong khi ông ta đã không hề quan tâm thời gian mà cứ nói và nói mãi, nhưng lại hành động như thế khi bọn trẻ hỏi. “Được thôi, chàng trai trẻ. Điều gì nào?”
“Những văn bản bị mất cắp. Chúng là cái gì ạ?”
“Những văn bản? Ổ, chúng là những tấm bản đồ của thứ gì đó.”
“Những tấm bản đồ?” Reynie lặp lại, mặc dù tất nhiên cậu đã biết là gì. Cậu đang mong ông Schuyler có thể cung cấp manh mối địa điểm của hòn đảo đó. “Chính xác là tấm bản đồ của cái gì ạ?”
Ông Schuyler đường như không thích câu hỏi này. Khó chịu, ông ấy sốt ruột gõ cái tẩu thuốc lên mặt bàn. “Chúng ta không biết. Những tài liệu đó được sắp xếp và ghi chép hơn một năm trước và không ai xem xét lại chúng.”
“Ai đã sắp xếp và ghi chép chúng ạ?” Reynie khăng khăng, nhìn ông Schuyler và Sophie. “Chúng cháu có thể nói chuyện với người đó không ạ?”
Sophie nhìn ông Schuyler, và Reynie đã hiểu ra. Hiển nhiên ông Schuyler là người đó. Và rõ ràng ông ấy không kiểm tra những tấm bản đồ.
“Ta không thể ghi nhớ mọi điều ta nhìn thấy!” Ông Schuyler giận điên lên. “Ta khá bận bịu với công việc ở đây, các cháu.” Ông ta bật dậy khỏi ghế. “Mặt khác, ta có những việc cần chú tâm mọi lúc. Chúc một ngày tốt lành, các cháu. Ta hy vọng các cháu sẽ hợp tác với cảnh sát. Làm ơn cư xử đúng chừng mực.”
“Cảnh sát?” bọn trẻ khóc thét.
Ông Schuyler mỉm cười. “Ổ, phải, tất nhiên, các cháu phải đợi họ ở đây. Cảnh sát muốn hỏi tất cả những người có liên quan tới vụ tấn công. Các cháu đã hỏi xem những giấy tờ này, nên các cháu phải bị thẩm vấn. Sophie, tôi cho rằng cô đã gọi cảnh sát.”
Sophie đáp lại. “Vẫn chưa, thưa ông,” cô nhìn bọn trẻ vẻ xin lỗi.
“Vẫn chưa!” Ông Schuyler la lên phẫn nộ. “Tuyệt thật, nếu cô không phiền gọi...”
“Tôi sẽ làm ngay,” Sophie nói, nhanh chóng chạy đến bàn mình.
Reynie nhảy đến bên chân ông ta. “Làm ơn, ông Schuyler, ông có thể nghĩ...” I
Nhưng ông Schuyler không để cậu nói hết. “Không,” ông ta kiên quyết đáp. “Ta sẽ không.” Ông ta quay người và oai vệ đi ngang qua bàn quản lý vào một căn phòng phía sau.
Với điện thoại trên tay, Sophie nhìn ông ta đi qua. Cô lắng nghe một lúc, sau đó quay lại chỗ bọn trẻ. “Có vấn đề với cái điện thoại này,” cô nói nhanh. “Nó không hoạt động. Cô sẽ cố gọi lần nữa trong một hoặc hai phút tới. Các cháu có muốn sử dụng phòng tắm không? Nó ở tầng dưới.” ]
“Phòng tắm ư?” Sticky nói.
Kate tóm lấy cậu và thì thầm. “Cô ấy để chúng ta đi, Sticky. Đi nào.”
Chúng nhanh chóng đi ra cửa, chỉ đừng lại đủ để gửi cái nhìn biết ơn đến người thủ thư trẻ.
“Cám ơn, Sophie.” Reynie thì thầm.
“Chúc các cháu may mắn,” Sophie thì thầm đáp trả. Cô nhìn chúng rời khỏi với mối lo lắng lớn, không nghi ngờ gì, cô ấy đã làm đúng khi để chúng đi. Sau tất cả, chúng chỉ là trẻ con. Cho dù chúng đang làm điều gì, cho dù chúng đi đâu bây giờ – chúng có an toàn không?
Đó là một câu hỏi chỉ được chia sẻ giữa bọn trẻ.
Và câu trả lời là không.
Mục Lục

0 nhận xét:

Đăng nhận xét